Ở người, có bốn chi gồm hai chi trên và hai chi dưới, dính với thân bởi vai và hông. Chi trên và chi dưới tương đối giống nhau, chỉ khác là bàn tay ở chi trên trong quá trình lao động đã dần dần biến đổi thành một khí cụ dùng để cầm nắm. Còn chi dưới, chức phận khác với chi trên, chỉ dùng để nâng đỡ, đứng và đi. Chi trên sấp, ngửa và gấp ra trước. Chi dưới gấp ra sau.
Xương chi trên gồm có :
– Các xương ở vai : có 2 xương (xương đòn và xương vai) gọi chung là đai vai.
– Xương ở cánh tay : có 1 xương (xương cánh tay) dài hơi xoắn theo trục ra phía trước. – Các xương ở cẳng tay : có 2 xương (xương trụ và xương quay). Khi cẳng tay ngửa, 2 xương
nằm song song, xương trụ ở trong, xương quay ở ngoài.
– Các xương ở cổ tay : có 8 xương nhỏ, gọi chung là khối xương cổ tay. Các xương này xếp có 3
làm hai hàng, mỗi hàng có 4 xương.
– Các xương ở bàn tay : có 5 xương đốt bàn tay và 14 xương đốt ngón tay. Mỗi ngón
xương, ngón cái có 2 xương.
Các xương ở chi trên được liên kết với nhau bởi các khớp động (H.2.1.)
EN
ĐẠI VAI
(cingulum membri superior)
XƯƠNG ĐÒN
Xương đòn (clavicula) là một xương dài, tạo nên phần trước của đai vai. Xương nằm ngang phía trước và trên của ngực. Thân xương dẹt, cong hình chữ S. Đầu xương phía ngoài khớp nối với mỏm cùng vai. Đầu xương phía trong nối với xương ức.
1. ĐỊNH HƯỚNG
Đặt xương nằm ngang.
– Đầu dẹt ra ngoài.
– Bờ lõm của đầu dẹt ra trước.
– Mặt có rãnh xuống dưới.
Đặc điểm của xương đòn người Việt Nam dài trung bình 13,75 cm rộng chu vi 3,73 cm, nói
chung rất mạnh.
MÔ TẢ
THÂN XƯƠNG
: Có hai mặt, hai bờ.
Mặt trên
: phía ngoài gồ ghề, phía trong trơn nhẵn, sờ rất rõ ngay dưới da (H.2.2A).
Mặt dưới
: rất gồ ghề, ở phía trong có vết ấn dây chằng sườn đòn (impressio lig, costoclavicularis) để dây chằng sườn đòn bám và ở phía ngoài có củ nón (tuberculum conoideum)
30
và đường thang (linea trapezoidea) để dây chằng nón và dây chằng thang bám. Ở phía giữa của mặt dưới có một rãnh nằm dọc theo xương để cơ dưới đòn bám (H.2.2B).
Bờ trước
: Phía ngoài lõm, mỏng và gồ ghề, phía trong lồi và dày.
Bờ sau
: Phía ngoài lồi, gồ ghề, phía trong lõm.
Đầu cùng vai
Củ nón
Đầu ức
A. MẶT TRÊN
Diện khớp cùng vai Đường thang
Vết ấn
dây chằng sườn đòn
Diện khớp ức
Củ nón
Rãnh dưới đòn
B. MẶT DƯỚI
Hình 2.2. Xương đòn
2.2. ĐẦU XƯƠNG :
2.2.1. Đầu ức (extremitas sternalis) ở trong dày và to, có diện khớp ức (facies articularis sternalis) khớp nối với xương ức.
2.2.2. Đầu cùng vai (extremitas acromialis) ở ngoài dẹt và rộng, có diện khớp mỏm cùng
(facies articularis acromialis) khớp nối với mỏm cùng vai của xương vai.
Xương đòn nối với xương vai tạo thành một nửa vòng đai cho mỗi bên thân mình. Mỗi nửa đai chỉ khớp với xương ức ở phía trước. Vì vậy, vòng đai có thể chuyển động rộng rãi. Khi chấn thương : ngã, đập vào vai ở tư thế chống khuỷu hay bàn tay xuống đất… chấn thương truyền đến đại vai làm tổn thương hai xương của đai vai. Tuy nhiên vì xương vai chuyển động được nhiều, xương đòn ít chuyển động hơn nên cũng dễ gẫy hơn. Điểm yếu thường gãy của xương đòn ở chỗ nối giữa 1/3 ngoài và 2/3 trong.
31
XƯƠNG VAI
Xương vai (scapula) det, hình tam giác nằm áp phía sau trên của lõng ngực.
I. ĐỊNH HƯỚNG.
– Gai vai ra sau.
– Góc có diện khớp hình soan lên trên và ra ngoài.
MÔ TẢ
.
Xương có hai mặt, ba bờ và ba góc.
CÁC MẶT
.
Mặt sườn
(facies costalis) (H.2.3) lõm, gọi là hố dưới vai (fossa subscapularis), trong hố có nhiều gờ chếch hình nan quat giúp cho cơ dưới vai bám được chắc hơn.
Mặt lưng
(facies dorsalis) (H.2.4) có gai vai (spina scapulae) chạy chếch lên trên và ra ngoài. Phần ngoài của gai dẹt gọi là mỏm cùng vai (acromion), ở đó có diện khớp mỏm cùng vai (facies articulari acromii) để tiếp khớp với diện khớp mỏm cùng của xương đòn. Gai vai, mỏm cùng vai nằm rất nông, dễ dàng sờ thấy ngay dưới da và chia mặt lưng làm hai hố : hổ dưới gai (fossa infraspinata) và hố trên gai (fossa supraspinata).
Mỏm cùng vai
Mồm quạ
Bờ trên
Góc trên
Củ trên ổ chảo
Ổ chảo
Cổ xương vai
Củ dưới ổ chảo
Hố dưới vai
Bờ ngoài
Bờ trong
Góc dưới
ong
Hình 2.3 : Xương vai (mặt sườn)
32
Hố trên gai
Khuyết vaio
Góc trên
Mỏm cùng vai
Cổ xương vai
Gai vai
Bờ trong
Hố dưới gai
Bờ ngoài
Góc dưới
Hình 2.4: Xương vai (mặt lưng)
CÁC BỜ
Bờ trên
(margo superior) phần trong mỏng, ngoài dầy, hai phần cách nhau bởi khuyết vai (incisura scapulae) hay còn gọi là khuyết quạ. Phía ngoài có mỏm quạ (processus coracoideus) nhô chếch lên trên rồi gập góc ra trước và ra ngoài.
Bờ ngoài
(margo lateralis) phía dưới mỏng, phía trên dày tạo thành một cột trụ để
nâng đỡ mặt khớp ở góc ngoài.
Bờ trong
(margo medialis) mỏng và sắc. Thẳng ở 3/4 dưới và chếch ra ngoài ở 1/4 trên, tạo nên một góc mở ra ngoài, góc này là nơi bắt đầu của gai vai.
CÁC GÓC
Góc trên
: hơi vuông.
Góc dưới
: hơi tròn.
Góc ngoài
: có một hõm khớp hình trái soan to ở đầu dưới, hơi lõm gọi là ổ chảo (cavitas glenoidalis). Ő chảo dính với thân xương bởi một chỗ thắt gọi là cổ xương vai (collum scapulae). Phía trên và dưới ổ chảo có hai củ nhỏ : củ trên ổ chảo (tuberculum supragle nidale và củ dưới ổ chảo (tuberculum infraglenoidale) (H.2.3.).
Đặc điểm của xương vai người Việt Nam (nghiên cứu trên 100 xương) : xương vai hình ual. ola trong 55%, bốn cạnh 16%, còn 29% hình không rõ rệt. Cao trung bình 14,36 cm và ngang 9,6 cm. C hảo hình quả lê (đầu to ở dưới) trong 55%, còn 45% hình bầu dục. Khuyết vai chỉ thấy trong 24G. 1on thành lỗ 13%, còn phần nhiều là trũng, không có lỗ hay mẻ rõ rệt. Móm qua rất dầ * ng : 1,: s: mảnh & Ann ngang M ning Inh hấr sonh (AC hev tem gióc (en
XƯƠNG CÁNH TAY
Xương cánh tay (humerus) là một xương dài, nối với xương vai ở trên và hai xương căng
tay ở dưới.
I. ĐỊNH HƯỚNG : Đặt xương đứng thẳng. – Đầu tròn lên trên, hướng vào trong.
– Rãnh ở đầu này hướng ra trước.
MÔ TẢ
: Thân xương có ba mặt, hai bờ. Xương có hai đầu : trên và dưới (H.2.5).
THÂN XƯƠNG
.
Mặt trước ngoài
(facies anterior lateralis) Khoảng giữa có một vùng gồ ghề hình chữ V gọi là lồi củ đen ta (tuberositas deltoidea) (H.2.5A).
Mặt trước trong
(facies anterior medialis) : Phẳng và nhắn. Ở giữa có lỗ nuôi xương. 1/3 trên có một đường gờ gọi là mào củ bé (crista tuberculi minoris) (H.2.5A).
Mặt sau
(facies posterior) : Có một rãnh xoắn chếch xuống dưới và ra ngoài gọi là rãnh thần kinh quay (sulcus n.radialis). Trong rãnh có dây thần kinh quay và động mạch cánh tay sâu. Dây thần kinh quay rất dễ tổn thương khi gẫy ở 1/3 giữa và 1/3 dưới xương cánh tay (H.2.5B). 2.1.4. Bờ : Thân xương cánh tay có ba mặt, tương ứng với ba bờ. Nhưng bờ trước ở trên
không rõ ràng, ở phía dưới lại chẽ ra hai gờ nhỏ bao quanh hố vẹt cho nên người ta coi như
thân xương chỉ có hai bờ : bờ trong (margo medialis) và bờ ngoài (margo lateralis), hai bờ này
rất rõ ở phía dưới và là chỗ bám của hai vách gian cơ trong và ngoài.
2.2. ĐẦU XƯƠNG :
2.2.1. Đầu trên là chỏm (caput humeri) hình 1/3 trái cầu. Ở xương tươi, chỏm được che phủ bởi sụn khớp. Phần xương ở mép sụn khớp là một chỗ thắt gồ ghề, gọi là cổ giải phẫu (collum anatomicum). Trục của đầu xương hợp với trục của thân xương một góc khoảng 130°.
Phía ngoài chỏm và cổ giải phẫu có hai củ. Củ bé (tuberculum minus) ở trong và củ lớn (tuberculum majus) ở ngoài. Giữa hai củ là rãnh gian củ (sulcus intertubercularis). Rãnh này chạy dài xuống mặt trước trong của thân xương. Rãnh có hai bờ, bờ ngoài là mào củ lớn (crista tuberculi majoris) và bờ trong là màu củ bé (crista tuberculi minoris). Đầu trên nối với thân xương bởi một chỗ hẹp gọi là cổ phẫu thuật (collum chirurgicum). Thường hay gẫy xương ở đây (H.2.5B)
2.2.2. Đầu dưới dẹt, hơi bè ngang và cong ra trước, được coi như một lồi cầu (condylus humeri) gồm : – Chỏm con (capitulum humeri) ở phía ngoài. Nhìn ở phía trước giống hình cầu (còn gọi
là lỗi cầu). Phía trên hơi lõm gọi là hố quay (fossa radialis) (H.2 5A). H I NHÀ
34
Cổ giải phẫu.
Củ lớn
Mào củ lớn
Rãnh gian của
Chăm
Củ bé
Mào củ bé
Cổ giải phẫu
Cổ phẫu thuật
ngon tay ti cil
Lối củ đen-ta
Mặt ngoài
Mặt trong
Rãnh thần kinh quay
Bờ ngoài
Bờ trong
Bờ ngoài –
Mặt sau
THIẾT DIỆN THÂN XƯƠNG
Bờ trong
Rãnh thần kinh trụ
Hộ mỏm khuỷu
Hố quay
Mỏm trên lối cầu ngoài
Hố vẹt
Mỏm trên lối cầu trong
Ròng rọc
Hình 2.5 : Xương cánh tay.
Chº con
A. NHÌN PHÍA TRƯỚC
Mỏm trên lồi cầu ngoài
B. NHÌN PHÍA SAU
ook – Ròng rọc (trochlea humeri) nằm bên trong, hình ròng rọc, mặt trước trên có hố vẹt (fossa coronoidea), mặt sau có hố mỏm khuỷu (fossa olecrani) (H.2.5B)
Phía trên trong và trên ngoài của chỏm con và ròng rọc là hai mỏm : Mỏm trên lồi cầu ngoài (epicondylus lateralis) và mỏm trên lồi cầu trong (epicondylus medialis). Giữa mỏm trên lồi cầu trong và mỏm khuỷu của xương trụ là rãnh thần kinh trụ (sulcus ulnaris), có dây thần kinh trụ đi qua. Các mỏm xương này đều có thể so thấy ngay dưới da và là những mốc quan
35
trọng trong việc khám các bệnh về xương, khớp khuỷu và dây thần kinh trụ. Ở trẻ em thường
hay gẫy ở đầu dưới xương cánh tay, nhất là gẫy ở các mỏm trên lồi cầu trong hoặc ngoài. Mỏm gẫy thường bị các cơ bám ở các mỏm kéo xuống làm di lệch nhiều, do đó việc điều trị trở nên rất khó khăn. Đặc điểm của xương cánh tay người Việt Nam (nghiên cứu trên 80 xương) : xương cánh tay người Việt Nam dài 29,9 cm (64% do từ 28 cm đến 32 cm). Chu vi ở chỗ nhỏ nhất là 58 cm. So sánh với xương của người Âu, xương người Việt Nam tuy ngắn và bé hơn nhưng cũng mạnh bằng. Xương bị xoắn ít hơn 145° đối với 162° trên xương người Au, chỏm tròn (cao 3,8 cm, rộng
3,42 cm). Đầu dưới đo trung bình 5,8 cm đi từ mỏm ngoài trên lồi cầu tới mỏm trong trên ròng
rọc. Có 3,8% xương bị thủng ở hố khuỷu.
XƯƠNG QUAY
Xương quay (radius) là một trong hai xương của cẳng tay, 1/5 trên thẳng, 4/5 dưới cong: nằm dọc phía ngoài cẳng tay (H.2.6)
1. ĐỊNH HƯỚNG
Đặt xương đứng thẳng
– Đầu lớn ở dưới.
– Mấu nhọn đầu lớn ở ngoài và mặt có nhiều rãnh ra phía sau.
MÔ TẢ
Thân xương có ba mặt, ba bờ. Đầu xương có hai : đầu trên và đầu dưới (H.2.6)
THÂN XƯƠNG
Các mặt
: Có ba mặt : mặt trước (facies anterior), mặt sau (facies posterior) và mặt ngoài (facies lateralis). Mặt trước bắt đầu từ lồi củ quay (tuberositas radii), xuống dưới rộng dần, khoảng giữa có lỗ nuôi xương.
Hai mặt trước và sau hơi lõm, mặt ngoài lồi.
Các bờ
: Có ba bờ : bờ trước (margo anterior), bờ sau (margo posterior) và bờ gian cốt (margo interosseus). Bờ gian cốt sắc, hướng vào trong.
2.2. ĐẦU XƯƠNG
2.2.1. Đầu trên : có chỏm xương quay (caput radii) gồm :
– Một mặt lõm hướng lên trên, khớp với chỏm con xương cánh tay.
– Một diện khớp vòng xương quay (circumferentia articularis) (vành quay) sẽ tiếp khớp với khuyết quay của xương trụ. Ở xương tươi, các diện khớp này đều có sụn học che phủ.
– Cổ xương quay (collum radii) dài khoảng 10-12mm, hình ống.
36
Xương quay
Mặt trước
Mặt ngoài
Mặt sau
Xương trụ
Màng gian cốt
THIẾT DIỆN THÂN XƯƠNG
Mặt trong
Hình 2.6 : Xương quay và xương trụ (mặt trước) – Lồi củ quay (tuberositas radii) là nơi bám của cơ nhị đầu.
Từ phần trên lồi củ quay, trục xương đứng thẳng. Từ phần dưới thân xương hơi uốn cong. (H.2.7B và C).
Giữa cổ xương và thân xương hợp thành một góc mở ra ngoài gọi là góc cổ thân (H.2.7B). Nhờ góc này nên xương quay có thể quay quanh xương trụ làm cho bàn tay sấp ngửa được. Khi gẫy, xương quay có thể bị gập góc hoặc hai khúc gẫy chồng lên nhau làm cho cử động sấp ngửa bị giảm hoặc mất.
2.2.2. Đầu dưới : Ba mặt ở thân xương quay khi tới đầu dưới sẽ có thêm một mặt nữa thành bốn mặt. Mặt thêm vào là mặt trong do bờ gian cốt chia đôi tạo nên. Mặt trong hình tam giác, ở dưới có một diện khớp nhỏ gọi là khuyết trụ (incisura ulnaris) xương quay (H.2.7C). Mặt ngoài và mặt sau có nhiều rãnh cho gân các cơ duỗi đi xuống bàn tay (H.2.7B).
37