BỆNH TIÊU HÓA Ở NGƯỜI GIÀ

1. Đại cương

Cơ quan tiêu hóa trở nên già tương đối chậm. Nhưng qua thời gian, cũng có nhiều biến đổi liên quan đến giảm tiết dịch tiêu hóa và khả năng hoạt động của các men. ở mồm có thể thấy giảm ptyalin, ở dạ dày giảm axit clohydric (gặp ở 40% người trên 60 tuổi, nhất là nam). Giảm axit clohy-dric tương ứng với teo niêm mạc dạ dày dẫn đến các hậu quả như:

  • Tại chỗ: giảm khả năng tiêu hóa protein, thiếu máu do yếu tố nội tại.
  • ở ruột: kém hấp thụ sắt và canxi, tạp khuẩn đại tràng xâm nhập tiểu tràng. Tình trạng đó biểu hiện bằng hiện tượng ăn không ngon, chán ăn.

Tụy tạng nội tiết hay ngoại tiết bị thu teo. ở ruột có hiện tượng giảm khả năng hấp thu, giảm trương lực cơ của đại tràng, ngay từ 50 tuổi trở đi.

Răng bị hư hỏng, rụng dần, làm cho việc nhai thức ăn khó khăn vì nhai cần có đủ răng hàm và răng hàm nhỏ cả trên lẫn dưới tương xứng. Do nhai không tốt nên khó tiêu hóa các thức ăn cứng, vì vậy kích thích thực quản và dạ dày. Đào thải nhiều thức ăn khó nhai, đòng thời thiếu xeluloza, làm cho dễ bị táo bón, nhất là ở những người sống tĩnh tại ít vận động.

Một thống kê gần đây ở nước ngoài trên 3000 bệnh nhân già đến khám về tiêu hóa thấy 11% có ung thư, 10% có loét dạ dày tá tràng, 85 có bệnh gan mật, 3% có viêm túi thừa đại tràng và 8% có các bệnh khác. Tổng cộng là 40% có bệnh tiêu hỏa.

Cần lưu ý là các ung thư ở cơ quan tiêu hóa tiến triển rất khó lường trước. Vì vậy, cần phải cảnh giác, ở lứa tuổi thứ ba đối với các ung thư hay được che đậy dưới dạng rối loạn chức năng và phải tiến hành thăm dò kĩ lưỡng.

Bệnh lí tiêu hóa ở tuổi già, như vậy có hai đặc điểm cần nhấn mạnh: ung thư các loại và giảm tiết dịch, giảm vận động.

Về chỉ định phẫu thuật, cần hạn chế ở người già, nhất là về phương diện ung thư. Ngược lại, đối với xuất huyết cần mạnh dạn can thiệp, vì nguy cơ thiếu máu cục bộ rất lớn. Đối với tắc ruột do giải dính bệnh của đường mật chủ, thái độ xử trí cũng như vậy.

2. Thực quản

a. Bệnh của thực quản hay gặp nhất ở người già là thoát vị hoành gặp ở mức độ khác nhau ở ba phần tư người trên 70 tuổi; có liên quan đến nhão cơ hoành, tăng crân nặng và đôi khi thiểu năng giáp. Chần đoán X- quang thoát vị hoành phải rất thận trọng.

Dịch vị trào ngược qua khe hoành gây những triệu chứng thực quản; cảm giác bỏng nhất là ở tư thế nằm sấp. Viêm thực quản có thể dẫn đến loét tiêu hóa và hẹp do sẹo. Thoát vị lớn có thể đẩy tim và gây đau như cơn đau tim. Hay có xuất huyết âm ỉ, gây thiếu máu nặng, thể hồng cầu nhỏ.

Về điều trị nội khoa, thường dùng kem băng bó (phosphalugel, aluco- gel) nên uống ở tư thế nằm ban ngày, đêm lúc đi ngủ.

Khi có bỏng rát thực quản dùng Muthesa (huyền dịch 2%, một chất gây tê, oxethacainum trong một gel hydroxyt alumin) lảm giảm đau nhanh chóng. Nếu bệnh nhân có thói quen nằm ngửa, cần nghiêng giường để hạn chế dịch vị trào ngược ban đêm. Nếu cỏ thiếu máu, phải cho sắt, tốt nhất là tiêm.

Về ăn uống, nên tránh chất lỏng quá nóng, quá lạnh, nhiều gia vị, nhiều rượu. Hạn chế rau và quả, trừ trường hợp bệnh nhân nhai kĩ để tránh kích thích cơ giới.

Các kết quả phẫu thuật thường cũng không tốt lắm vì tổ chức cơ hoành đã hư tổn nhiều làm cho việc khâu khó bền chặt.

b. Khó nuốt

Là một triệu chứng đáng ngại và chẩn đoán nguyên nhân nhiều khi cũng khó, nhất là trường hợp không thấy tổn thương thực tế. Có thể là một dấu hiệu rối loạn tuần hoàn giả hành tủy hoặc do nguyên nhân tinh thần. Khó nuốt do máu thiếu sắt (trước gọi là hội chứng Plummer – Vin- son, nay gọi là hội chứng Kelly-Paterson) hay gặp ở phụ nữ.

Phải cho ăn bằng xông để dài ngày (ba tuần, một tháng). Trong các nguyên nhân thực thể tại chỗ, cần tìm: túi thừa Zenker, thoát vị gần thực quản, co thắt tâm vị. Tất nhiên, quan trọng nhất là phải nghĩ đến cacinom thực quản. Tất cả những người khó nuốt phải được chụp X-quang thực quản và soi thực quản, tốt nhất là với ống soi mềm.

3. Dạ dày

Tuổi càng cao, niêm mạc dạ dày càng dễ teo và giảm tiết dịch vị càng hay gặp. Làm sinh thiết niêm mạc dạ dày hàng loạt, thấy tổn thương thoái hóa các tuyến gặp trên một phần ba người già và teo rõ rệt trên 28% trường hợp. Ngoài ra, còn gặp tổn thương kẽ ở hai phần ba người già.

Nhìn chung ở lứa tuổi thứ ba, chỉ có 26% dạ dày bình thường về mặt tổ chức học và không được một nửa trong số đó còn tiết dịch vị. cần lưu ý là viêm dạ dày teo và đặc biệt loại gây thiếu máu Biermer thường được xem là giai đoạn tiền ung thư.

a. Ung thư dạ dày hay gặp ở người nhiều tuổi. Các triệu chứng của bệnh thường kín đáo hơn ở người đứng tuổi. Chỉ có những dấu hiệu mà bản thân bệnh nhân cũng ít quan tâm như: Ăn không ngon, chán thịt, da xanh. Vì vậy, chần đoán thường muộn và quá giai đoạn phẫu thuật.

Hiện nay có thể sinh thiết khi soi ống mềm, nên phát hiện được ung thư dạ dày sớm hơn. Vì vậy nên tiến hành sinh thiết khi nghi có tổn thương thực tế ở bờ cong nhỏ và ở vùng trước môn vị.

b. Loét dạ dày ở người già cũng có một số đặc điểm lâm sàng khác với người đứng tuổi. Tỉ lệ kinh điển: Ba loét tá tràng cho một loét dạ dày bị đảo ngược và quá nửa loét ở người già là ở bờ cong nhỏ. Khoảng một phần ba loét dạ dày và một phần mười loét hành tá tràng bắt đầu sau 60 tuổi. Khác với người đứng tuổi bệnh hay gặp ở nam; đối với người già, tỉ lệ nam và nữ có loét dạ dày tá tràng ngang nhau. Tính chất tiến triển theo chu kì cũng không còn rõ rệt nữa.

Loét dạ dày tá tràng thường gặp hơn so với người dưới 60 tuổi. 30% loét có xuất huyết. Với số lượng mất máu ngang nhau, xuất huyết ở người già nguy hiểm hơn vì các tổ chức già kém chịu đựng tình trạng thiếu máu. Mặt khác yếu tố mạch máu đặc biệt quan trọng trong cơ chế sinh loét ở người già.

Có một thể bệnh khá riêng biệt cho người già đó là loét do thiếu dinh dưỡng (rất hay gặp trong chiến tranh, do thiếu ăn), ổ loét khổng lồ ở phần đứng ngay ở góc bờ cong nhỏ, ít đau, gầy sút nhanh chóng. Loại loét này có thể điều trị nội khoa được bằng cách cho ăn nhiều protit, các thuốc làm đồng hóa. Không nên mổ.

Các thuốc chống loét dạ dày tá tràng rất ít kết quả. Hiện nay người ta chủ trương dùng các thuốc hạn chế tiết gastrin, hocmon kích thích sản xuất HCL. Quan trọng hơn cả, là chế độ ăn nhiều chất dinh dưỡng, chia làm 4-6 bữa, cần kiêng rượu, thuốc lá, cà phê lúc đói.

4. Ruột

a. Thường gặp trạng thái kém hấp thụ ở tiểu tràng do giảm tiết mật, tụy tạng, ruột, cần tính đến các yếu tố đó để tránh các rối loạn tiêu hóa, mặc dù nhỏ, như đầy bụng, buồn nôn, nhưng đều dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng. Hơn nữa, không phải chỉ có kém hấp thụ các thức ăn cung cấp năng lượng mà cả các chất khoáng (sắt, canxi) và các vitamin B12

b. Hiện nay, người ta chú ý đến tình trạng thiếu lactoza nguyên nhân gây nên hiện tượng không dung nạp sữa.

c. Táo bón kinh diễn, rất hay gặp ở người già, do lối sống tĩnh tại, ít vận động và chế độ ăn giảm thể tích thức ăn, nhất lả rau quả… không nên dùng thuốc nhuận tràng làm cho đi đại tiện lỏng và đau bụng. Một số công trình gần đây thấy tỉ lệ ung thư tăng ở người lạm dụng thuốc nhuận tràng kéo dài. Có thể dùng các dẫn xuất của séné (pursennit) có tác dụng kích thích thể lệ cơ của đại tràng, có thể cho thuốc lợi mật (socbitol, agocholine) vì mật tác động trên ruột.

d. Viêm ruột thừa bán cấp ở người già là một bệnh biến diễn rất nhanh nhưng lúc đầu lại chỉ có những triệu chứng rất nghèo nàn.

e. Bệnh đại tràng kinh diễn chủ yếu chức năng, thường là hậu quả của chế độ ăn uống không hợp lí, dùng những thuốc không đúng. Tuy nhiên, trước các rối loạn có tính chất chức năng, không được chủ quan và phải chú ý tìm xem có phải là giai đoạn đầu của ung thư hay không.

f. Bệnh túi thừa đại tràng rất hay gặp. Khoảng một phần ba người trên 60 tuổi có bệnh này, nhất là ở các nước có kinh tế cao, dùng thức ăn gồm chủ yếu là bột và thịt, thiếu chất xơ (rau quả). Các túi thừa hay gặp ở kết tràng xích ma. Phần lớn, viêm túi thừa có thể điều trị nội khoa bằng chất dầu, sunfamit không tiêu, bitmut. Nhiều tác giả khuyên nên ăn cám. Khi cần có thể dùng phẫu thuật cắt bỏ kết tràng xích ma.

g. Ung thư đại trực tràng ngày càng nhiều ở châu Âu và Bắc Mỹ. Là một nguyên nhân tử vong quan trọng, nhiều hơn cả tai nạn giao thông (Tổ chức Y tế Thế giới) có liên quan đến nghiện rượu, nghiện thuốc lá, lạm dụng thuốc nhuận tràng, và chế độ ăn quá mức, có thể các yếu tố đó làm tăng thoái biến các steroit gây ung thư do một số vi khuẩn, cần cảnh giác với xuất huyết qua đường hậu môn. Hết sức tránh chẩn đoán quá dễ dàng cho là do trĩ. Soi trực tràng là một thăm dò cần thiết vì có thể giúp phát triển quá nửa trường hợp ung thư đại tràng. Điều trị bằng phẫu thuật đạt kết quả tốt khi mổ sớm.

5. Gan

a. Vàng da cũng có những nguyên nhân như ở người đứng tuổi nặng, còn 3/4 trường hợp là do tắc mật, trong đó 1/3 là do sỏi (nam cũng như nữ tỉ lệ ngang nhau) ở 2/5 là do ung thư. số còn lại là do ứ mật trong gan do một số thuốc dùng quá lâu: phenothiazin, thuốc chống trầm cảm, chống thấp khớp…

b. U gan không phải hiếm, kèm theo vàng da, khi khối u bít một trong các đường mật chính. Chụp nhấp nháy, chụp cản quang động mạch thân tạng, có thể giúp cho chần đoán, u gan là một biến chứng kinh điển của xơ gan, nhất là ở Bắc Phi.

6. Túi mật

a. Sỏi rất hay gặp; một phần ba trường hợp mổ tử thi ở nữ có sỏi. bằng chụp X-quang, một nửa phụ nữ trên 70 tuổi và một phần ba nam giới trên 80 tuổi, có hình ảnh sỏi, ở đa số trường họp, sỏi không có triệu chứng gì.

Không phải tất cà các sỏi ở túi mật phát hiện được bằng X-quang đều có chỉ định mổ. Bệnh nhân lớn tuổi không nên mổ vì 67% người già có sỏi không có triệu chứng gì ứ mật. Mặt khác, sỏi mật hay đi cùng thoát vị hoành và bệnh túi thừa (tam chứng Saint). Hơn nữa, người già có sỏi mật hay có bệnh đái tháo đường và vữa xơ động mạch.

Chỉ nên mổ những người có cơn đau quặn gan, khi có viêm mật quản (tuổi càng cao càng hay gặp sỏi ống mật chủ) hoặc khi bệnh gây các rối loạn ở tim, kiểu mạch vành.

Hiện nay người ta đặt hy vọng nhiều ở các thuốc làm tan các sỏi mật: axit chemodesosycholic, chỉ tác dụng với sỏi cholesterol đơn thuần (sỏi không cản quang). Kết quả càng cao khi các viên sỏi càng nhỏ. Nhưng điều trị phải lâu dài, trong 6 tháng đến một năm. vẫn có một số bị tái phát.

b. Ung thư túi mật hiếm gặp. Nhiều phẫu thuật viên chủ trương cắt bỏ tất cả các túi mật có sỏi để đề phòng ung thư. Nhưng thường phẫu thuật làm muộn nên không cứu được người bệnh.

7. Tụy tạng

Tuổi càng cao, dịch tiết (nội tiết và ngoại tiết) của tụy tạng càng giảm. Việc giảm các enzim ngoại tiết đã ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa.

Một số bệnh tụy tạng rất thường gặp ở người già là ung thư. Khi người trên 60 tuổi có vàng da đơn thuần tức là không có triệu chứng nào khác,
thì phải hết sức cảnh giác.

Phẫu thuật thường làm là cắt bỏ tá tràng và tụy tạng, nếu tổn thương ở đầu tụy. Nhiều khi chỉ còn làm được dẫn lưu. Nếu khối u ở thận và đuôi tụy tạng, việc cắt bỏ bằng phẫu thuật dễ dàng hơn và kết quả cũng tổt hơn.

Scroll to Top