1.Giải phẫu sinh lý
Vỏ não là lớp chất xám bao quanh hai bán cầu đại não, dày khoảng 2 tới 5mm, diện tích là 0,25m2, có khoảng 100 tỉ tế bào thần kinh.
Về phương diện tiến hóa, vỏ não có 3 loại: vỏ não cổ, vỏ não cũ và vỏ não mới, 10 phần trăm là vỏ não cũ và cổ.
Vỏ não mới gồm 3 loại tế bào: tế bào tháp, tế bào hạt và tế bào hình thoi .
Vỏ não mới gồm 6 lớp tế bào từ nông đến sâu.
- Lớp I hay lớp phân tử: có ít tế bào thần kinh, chủ yếu được tạo thành do tập hợp các sợi thần kinh (là nơi tận cùng của sợi trục thần kinh và những synapse trên đuôi gai).
- Lớp II hay lớp hạt ngoài gồm phần lớn là những tế bào hạt, có vài tế bào tháp.
- Lớp III hay lớp tế bào tháp ngoài: gồm phần lớn là những tế bào tháp nhỏ.
- Lớp I, lớp II, lớp III được gọi là những lớp trên hạt làm nhiệm vụ liên hợp trong vỏ não, đặc biệt là các nơrôn ở lớp II vặ lớp III cho ra sợi trục thần kinh tạo ra những nối ngang giữa các vùng vỏ não lân cận.
- Lớp IV hay lớp hạt trong: gồm phần lớn là những tế bào hạt. Hầu hết những tín hiệu cảm giác chuyên biệt tận cùng ở lớp này, sau đó tín hiệu lan tỏa về phía bề mặt vỏ não và đồng thời về phía những lớp sâu hơn.
- Lớp V hay lớp tế bào tháp lớn cho những sợi trục thần kinh lớn xuống thân não và tủy sống.
- Lớp VI hay lớp đa dạng: gồm tế bào tháp, tế bào hình thoi và những loại tế bào khác.
- Tế bào tháp ở lớp VI cho sợi trục thần kinh tới đồi thị.
- Lớp IV, lớp V, lớp VI được gọi là những lớp dưới hạt.
Vỏ não cổ có 3 lớp tế bào và vỏ não cũ có từ 4 đến 5 lớp tế bào.
Vỏ não có liên hệ chặt chẽ với những cấu trúc sâu ở dưới vỏ, đặc biệt là đồi thị. Hình 59.3 cho thấy những vùng của vỏ não có liên hệ cả hai chiều với các phần riêng biệt của đồi thị. Khi đường liên hệ đồi thị vỏ não bị gián đoạn, thì vùng vỏ não tương ứng không hoạt động. Như vậy về phương diện giải phẫu và chức năng, vỏ não và đồi thị tạo thành một đơn vị gọi là hệ thống vỏ não – đồi thị.
Các tế bào thần kinh vỏ não sắp xếp thành từng cột dọc tế bào, mỗi cột là một đơn vị chức năng, có đường kính khoảng một phần của milimét và có hàng ngàn nơrôn trong mỗi cột.
2.Phân vùng vỏ não
Brodmann phân chia vỗ não thành 52 vùng, đánh số từ 1 đến 52.
Vỏ não gồm những vùng chức năng khác nhau.
2.1.Vùng vận động
Gồm 3 phân vùng: vùng vận động chính, vùng tiền vận động, vùng vận động bổ túc. Ngoài ra ở vỏ não người còn có những vùng vận động đặc biệt
2.1.1.Vùng vận động chính
Tương ứng với vùng 4 Brodmann hay hồi trước trung tâm, là nơi xuất phát của các bó tháp thẳng và chéo. Vùng vận động một bên chi phối vận động theo ý muốn của nửa thân thể bên kia. Theo Adrian thì bộ phận nào của cơ thể có cử động tinh vi và nhiều thì vùng vận động tương ứng ở vỏ não rộng, như đầu (nhất là vùng miệng) bàn tay có hình chiếu vận động ở vùng 4B chiếm một diện tích rất lớn, trong khi thân mình, cánh tay, chân chiếm một diện tích nhỏ hơn (Hình . Kích thích vùng này gây ra những cử động đơn giản.
2.1.2.Vùng tiền vận động
Gồm phần lđn vùng 6B, ở phía dưới vùng vận động bổ túc. Sự phân phôi hình chiếu của các bộ phận trong cơ thể ở vùng này gần như vùng vận động chính. Kích thích vùng tiền vận động sẽ gây ra các cử động phối hợp phức tạp để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Vùng tiền vận động hoặc gửi tín hiệu trực tiếp tới vùng vận động chính, hoặc gián tiếp tới hạch nền não, sau đó trở lại đồi thị rồi mđi tới vùng vận động chính.
2.1.3.Vùng vân đông bổ tức
Nằm ngay phía trước và phía trên vùng tiền vận động.
Muôn có đáp ứng của vùng này thì cường độ kích thích phải mạnh hơn và thường gây ra co cơ ở cả hai bên cơ thể. Vùng này cùng với vùng tiền vận động cung cấp những cử động liên quan đến tư thế, những động tác định hình những phần khác nhau của cơ thể, những cử động liên quan đến vị trí của đầu và mắt,… làm nền tảng cho sự điều khiển những cử động tinh vi và khéo léo của cánh tay và bàn tay, do vùng tiền vận động và vùng vận động chính chi phối.
Vùng tiền vận động và vùng vận động bổ túc có nhiệm vụ lập chương trình cho những cử động phức tạp tinh vi, khéo léo của cơ thể trước khi các cử động này xảy ra.
2.1.4.Những vùng vận động đặc biệt ở người: ở vùng tiền vận động
2.1.4.1.Vùng Broca
Tương ứng vơi vùng 44B và 45B, ngay phía trước vùng vận động chính và trên rãnh Sylvius. Vùng Broca tham gia vào hành động phát âm. Khi vùng này bị tổn thương, thì bệnh nhân không nói được thành lời, chi phát âm thành những tiếng vô nghĩa hoặc đơn giản như “không” hoặc “có”.
2.1.4.2.Vùng điều khiển cử động tự ý của mắt
Ở ngay phía trên vùng Broca. Nếu bị tổn thương vùng này thì bệnh nhân không thể tự ý điều khiển mắt nhìn những vật khác nhau, một khi đã nhìn vào một vật nào đó. Muốn nhìn vật khác, bệnh nhân phải chớp mắt hoặc lấy tay che mắt một lúc mới có thể chuyển động được mắt. Vùng này cũng điều khiển cử động của mí mắt như chớp mắt chẳng hạn.
Vùng 19B làm cho mắt nhìn chăm chú vào một
vật. Nếu vùng này bị tổn thương ở cả hai bên thì bệnh nhân sẽ mất khả năng giữ
mắt hướng về một điểm đã định.
2.1.4.3. Vùng quay
Kích thích vùng này làm quay đầu. Vùng này có liên hệ mật thiết với vùng điều khiển cử động của mắt, có lẽ điều khiển đầu quay về phía những vật khác nhau.
2.1.4.4. Vùng khéo tay
Ở vùng tiền vận động ngay phía trước vùng vận động chính của bàn tay và ngón tay là vùng khéo tay. Khi bị u não hay sang thương ở vùng này, cử động của bàn tay trở nên không phối hợp và không có mục đích.
2.2.Vùng cảm giác thân thể
Vùng cảm giác: bao gốm cảm giác xúc giác, nóng, lạnh và đau gồm hai phân vùng: vùng cảm giác chính gồm vùng cảm giác I và vùng cảm giác II. Vùng cảm giác liên hợp có nhiệm vụ giải thích ý nghĩa của các tín hiệu đi vào vùng cảm giác chính.
2.2.1.Vùng cảm giác I, II
Tương ứng với vùng 1B, 2B, 3B, nằm ở hồi sau trung tâm. Nếu vùng này bị tổn thương thì sẽ ảnh hưởng tới cảm giác xúc giác nóng lạnh và đau ở nửa thân bên kia. Hình 59.6 cho thấy hình chiếu cảm giác của các phần khác nhau của cơ thể trên vỏ não cảm giác I: môi chiếm diện tích lớn nhất, sau đó là mặt và ngón cái, thân thể và chi dưới chiếm diện tích nhỏ hơn.
Vùng cảm giác II nằm ở phía sau và phía dưới vùng I, hình chiếu cảm giác của các phần cơ thể lên vùng này được định vị sơ sài hơn: mặt ở phía trước, cánh tay ở chính giữa và chân ở phía sau.
2.2.2.Vùng cảm giác liên hợp
Gồm vùng 5B và 7B nhận tín hiệu thần kinh tới từ vùng cảm giác I, nhân của đồi thị, vỏ não thị giác và vỏ não thính giác. Vùng cảm giác liên hợp đóng vai trò giải thích ý nghĩa của tín hiệu cảm giác đi vào vùng cảm giác I. Khi vùng cảm giác liên hợp ở một bên bị cắt đi, bệnh nhân bị mất khả năng nhận biết những vật phức tạp bằng phương pháp cảm giác ở nửa thân thể đối diện. Ngoài ra còn bị mất hầu hết cảm giác về hình thể của nửa thân đôi diện, quên luôn sự hiện diện của nó, và thường hay quên không vận động nửa thân thể này. Hơn nữa bệnh nhân chi nhận biết một bên của vật thể và quên mất nửa bên kia. Sự thiếu hụt cảm giác phức tạp này được gọi … amorphosynthesis” (không tổng hợp được hình thể)
2.3.Các vùng giác quan
2.2.1.Vùng thị giác
Có hai vùng:
- Vùng thị giác thông thường: là vùng 17B ở thùy chẩm, cho ta cảm giác ánh sáng, cho phép nhìn thấy vật. Phá hủy vùng này thì sẽ bị mù gọi là mù vỏ não.
- Vùng thị giác nhận thức: là vùng 18B, 19B cho ta nhận thức được vật nhìn thấy. Khi bị tổn thương vùng này thì vẫn nhìn thấy vật, nhưng không biết là vật gì.
2.3.2.Vùng thính giác
- Vùng thính giác thông thường là vùng 41B, 42B thuộc thùy thái dương ồ cả hai bên, cho ta cảm giác âm thanh, nghe được tiếng. Nếu vùng này tổn thương ở cả hai bên sẽ làm giảm đáng kể khả năng nghe, không định hướng được âm thanh tới tai.
- Vùng thính giác nhận thức: tương ứng với vùng 22B cho ta nhận thức được ý nghĩa của âm thanh. Nếu bị phá hủy thì vẫn nghe được tiếng, nhưng không hiểu ý nghĩa của tiếng này.
2.3.3.Vùng khứu giác
Ở người vùng này ít phát triển. Giải khứu giác khi tới vùng thủng trước ở đáy não chia thành giải khứu bên và giải khứu giữa.
Giải khứu bên đi vào vùng khứu giác bên gồm vùng vỏ não trước vỏ lê, vùng vỏ não quanh thể hạnh nhân và vùng vỏ lê. Vùng khứu giác bên cho nhánh tới hồi hải mã (từ vùng vỏ não mũi thuộc vùng vỏ lê), tới trực tiếp phần trước trong của vỏ não thùy thái dương, và có nhánh tới nhân lưng giữa đồi thị, sau đó tới vùng vỏ trán thị.
Đây là đường cảm giác duy nhất của cơ thể, mà không có sự bắt buộc phải tiếp hợp với đồi thị trước khi tới vỏ não. Vùng khứu giác bên phụ trách việc điều hòa có tính cách tự động và “phải học” của sự ăn vào, và tránh những thức ăn độc không lành mạnh, dựa vào kinh nghiệm đã tiếp xúc với mùi thức ăn ấy.
Vùng trán thị phụ trách việc nhận các mùi vị một cách có ý thức.
Giải khứu giữa đi vào với vùng khứu giác giữa là vùng phụ trách những phản xạ căn bản của khứu giác như liếm mép, tiết nước bọt, ăn khi ngửi thây mùi thức ăn, cảm xúc thô sơ kết hợp với mùi. Vùng khứu giác giữa bao gồm một nhóm nhân nằm ở phần giữa nền não ở phía trước vùng dưới đồi, đáng chú ý nhất là nhân vách.
2.3.4.Vùng vị giác
Ở đầu dưới của hồi sau trung tâm của thùy đinh, nằm sâu vào rãnh bên tới vùng nắp thùy đảo, ở gần vùng cảm giác lưỡi của vùng cảm giác thân thể I. Vùng này cho cảm giác vị của thức ăn (mặn, ngọt, chua, cay), độ đặc lỏng và nhiệt độ của thức ăn, truyền cảm giác đau, mùi…
Khi bị tổn thương vùng này, lưỡi không nếm được, bị tê.
2.4.Vùng liên hợp
Vùng vỏ não liên hợp nhận và phân tích những thông tin từ nhiều vùng chức năng khác nhau của vỏ não cũng như những cấu trúc dưới vỏ. Những vùng vỏ não liên hợp quan trọng nhất là vùng liên hợp đinh – chẩm – thái dương, vùng trước trán và vùng liên hợp hệ viền.
2.4.1.Vùng liên hợp đỉnh – chẩm – thái dương
Vùng này nằm giữa vùng cảm giác thân thể ở phía trước, vùng thị giác phía sau, và vùng thính giác ở phía ngoài, nên có nhiệm vụ giải thích ý nghĩa của các tín hiệu đi vào vùng này từ xung quanh. Ngoài ra còn chia làm 4 phân vùng như sau:
2.4.1.1.Phân vùng hợp trong không gian của tất cả các phần của cơ thể và mối hệ chung quanh
Để điều hòa những cử động của thân thể, não cần phải biết mỗi phần của cơ thể đang ở vị trí nào, và mối liên hệ của chúng với môi trường chung quanh, ngoài ra các thông tin này cũng giúp phân tích những tín hiệu cảm giác của thân thể. Nếu bị tổn thương vùng này, thì người đó sẽ không nhận biết sự hiện diện của thân thể và môi trường chung quanh phía đối diện, cả về cảm giác lẫn vận động tự ý.
2.4.1.2.Phân vùng để hiểu ngôn ngữ
- Là vùng Wernicke nằm ở phía sau vùng thính giác thông thường, ở phần sau của hồi thái dương trên.
Hình 59.9 cho thấy vùng này là nơi hội tụ của những vùng giải thích cảm giác khác nhau, đặc biệt phát triển trên bán cầu não, ưu thế là bán cầu não trái ở người thuận tay phải, đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các phần khác của vỏ não để quyết định sự thông minh. Nếu bị tổn thương vùng này, bệnh nhân nghe tốt, nhưng không hiểu ý nghĩa gọi là điếc lời, hoặc đọc chữ nhưng không hiểu nghĩa. Như vậy vùng Wernicke có nhiệm vụ giải thích những ý nghĩa phức tạp của nhiều cảm giác khác nhau đã trải qua, còn gọi là vùng “giải thích tổng quát” hay vùng hiểu biết, hoặc vùng liên hợp thứ ba.
- Hồi góc nằm ngay phía sau vùng Wernicke. Nếu phá hủy thì bệnh nhân nghe và hiểu được lời nói, nhưng không hiểu được ý nghĩa của chữ dù thấy chữ, gọi là mù lời. Vùng hồi góc ưu thế thường ở bán cầu đại não trái (95% trường hợp).
Ngoài ra vùng Broca và vùng vận động điều khiển bàn tay cũng bán cầu đại não trái ở người thuận tay phải (95%).
- Vùng đinh – chẩm – thái dương phía bên bán cầu không ưu thế dùng để hiểu và giải thích âm nhạc, những gì trông thấy không liên quan đến lời nói, sự liên hệ trong không gian giữa người và môi trường chung quanh, tầm quan trọng của “ngôn ngữ thân thể” và âm điệu của giọng nói, và có lẽ nhiều kinh nghiệm liên hệ tới việc sử dụng chi và bàn tay.
2.4.1.3.Phân vùng để gọi tên vật
Tên được học chính yếu qua đường nghe, trong khi đặc tính vật lý và hình dạng của vật được học chủ yếu bằng thị giác.
2.4.2.Vùng liên hợp trước trán
Phối hợp chặt chẽ với vùng vận động chính để lập kế hoạch cho những cử động vận động phức tạp và kế tiếp nhau. Vùng này nhận tín hiệu từ vùng liên hợp đinh – chẩm – thái dương, qua bó dưới vỏ nối hai vùng này, do đó vùng trước trán nhận được những thông tin cảm giác được phân tích trước cần thiết cho việc iập kế hoạch vận động cho có hiệu quả. Phần lổn tín hiệu từ vùng trước trán phải đi qua phần nhân đuôi của vòng phản hồi hạch nền não – đồi thị trước khi- tới vùng vận động chính.
Vùng trước trán cũng rất cần thiết cho việc suy nghĩ (không thể hiện ra bằng cử động) trong một thời gian dài.
Những bệnh nhân khi cắt thùy trước trán, để chữa bệnh loạn tâm thần đã có những triệu chứng sau:
- Bệnh nhân mất khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp.
- Không thể liên kết những công việc kế tiếp nhau để đạt được mục đích nào đó.
- Không thể học để làm vài công việc cùng một lúc.
- Mức độ hung hăng bớt đi đáng kể, nhưng mất tất cả mong muốn, ước vọng.
- Phản ứng xã hội thường không thích hợp với cơ hội, mất khả năng xử thế hợp lý, thờ ơ với hoạt động tình dục và bài tiết.
- Bệnh nhân vẫn có thể nói chuyện và hiểu ngôn ngữ, nhưng không thể suy nghĩ lâu, và thay đổi trạng thái tinh thần nhanh chóng từ dịu dàng tới giận dữ, từ hân hoan đến điên cuồng.
- Bệnh nhân có thể thực hiện được phần lớn những cử động thông thường, nhưng thường không có mục đích.
Từ đó nhiệm vụ của vùng liên hợp trước trán là:
- Làm giảm những phản ứng hung hăng và những phản ứng xã hội không thích hợp, đó là nhiệm vụ của phần bụng của thùy trán.
- Vùng trước trán có khả năng sử dụng thông tin từ các vùng rộng lớn ở vỏ não để suy nghĩ nhằm đạt được mục đích nào đó; hoặc là vận động hay là hoạt động trí óc. Mặc dù những người không có thùy trước trán có thể suy nghĩ, nhưng rất ngắn hạn, chưa đầy một phứt đã bị lôi kéo ra khỏi chủ đề trung tâm của suy nghĩ.
- Vùng trước trán có khả năng ghi nhớ nhiều thông tin cùng một lúc, và gợi nhớ đến một thông tin nào đó ngay lập tức khi cần cho các ý nghĩ tiếp theo, được gọi là “trí nhớ đang làm việc” của não.
Vùng này được chia thành nhiều phân vùng chứa những loại trí nhớ tạm thời khác như là một phân vùng để chứa hình dạng của đồ vật, hay một phần của cơ thể, một vùng khác chứa các cử động. Bằng cách phối hợp những thông tin tạm thời của trí nhớ, chúng ta có những khả năng sau đây: tiên đoán, đặt kế hoạch cho tương lai, trì hoãn một hành động đáp ứng với thông tin cảm giác nào đó để có thể có đáp ứng tốt nhất, giải quyết các vấn đề toán học, luật pháp và triết học, liên kết tất cả thông tin để chẩn đoán những bệnh hiếm, điều khiển hoạt động cho phù hợp với đạo đức.
2.4.3.Vùng liên hợp viền
Gồm cực trước của thùy thái dương, phần bụng của thùy trán, và hồi đai ở mặt trong bán cầu não, liên quan tới hành vi, cảm xúc và động cơ hành động.
2.5.Các vùng chức năng khác nhau của vỏ não
2.5.1.Vùng để nhận diện ra khuôn mặt
Nếu bị tổn thương ở vùng như trong hình 59.10 bao gồm phần trong mặt dưới thùy chẩm, phần trong mặt bụng thùy thái dương, thì bệnh nhân mất khả năng nhận diện ra các khuôn mặt.
2.5.2.Các vùng của vỏ não để trao đối thông tin: vùng ngôn ngữ
2.5.2.1.Vùng tiếp nhận và hiểu ngôn ngữ
Vùng Wernicke. Tiếng nói và chữ viết đầu tiên được tai và mắt truyền về vùng thính giác và thị giác thông thường, sau đó tín hiệu được truyền qua vùng Wernicke để hiểu ý nghĩa được diễn tả.
Vùng Wernicke còn tham gia vào quá trình thành lập ý nghĩa và lựa chọn từ để diễn đạt các ý nghĩ, nên nếu bị tổn thương vùng này thì bệnh nhân không thể thành lập được ý nghĩ, hoặc nếu nghĩ được thì không thể sắp xếp lựa chọn từ để diễn tả ý nghĩ của mình một cách mạch lạc.
2.5.2.2.Vùng phát âm Broca
Tín hiệu được truyền từ vùng Wernicke tới vùng Broca qua bó cung, ở đó có sẩn chương trình vận động khéo léo để điều hòa sự thành lập chữ, sau đó vùng Broca truyền tín hiệu thích hợp tới vỏ não vận động phụ trách cử động của thanh quản, môi, miệng, hệ thống hô hấp để phát âm hoặc viết.
Ngoài ra tiểu não, hạch nền não và vỏ não cảm giác cũng giúp điều khiển diễn tiến và cường độ của sự co các cơ để phát âm cho rõ, hoặc viết được.
3.Nhiệm vụ của thể chai và mép trước trong việc liên lạc giữa hai bán cầu đại não
Các sợi thần kinh trong thể chai có chức năng nối liền các phần vỏ não tương ứng ở hai bán cầu, ngoại trừ phần trước của thùy thái dương. Những vùng thái dương này bao gồm luôn phức hợp hạnh phân được thông nối nhờ các sợi băng qua mép trước.
Một trong những nhiệm vụ của thể chai và mép trước là giúp truyền thông tin từ vỏ não một bên qua vùng tương ứng bên đối diện.
- Cắt thể chai làm ngăn sự truyền thông tin từ vùng wemicke ở bán cầu ưu thế sang vùng vỏ não vận động phía bên đối diện, như vậy hoạt động trí óc của não, căn bản ở bán cầu não ưu thế mất tác dụng điều khiển trên vùng vỏ não vận động phía bên phải, nên không điều khiển được cử động tự ý của cánh tay và bàn tay trái.
- Cắt thể chai làm ngăn sự chuyển thông tin thị giác và cảm giác tổng quát từ vỏ não phải vào vùng Wernicke của bán cầu ưu thế trái, nên thông tin về thị giác và cảm giác tổng quát ở phía bên trái cơ thể không tới được vùng Wernicke, và như vậy không sử dụng để quyết định được.
- Người bị cắt thể chai chi có bán cầu não trái mới hiểu được tiếng nói và chữ viết. Ngược lại bán cầu não phải chi có thể hiểu được chữ viết, và có thể tạo ra một đáp ứng vận động, mà vỏ não trái không hiểu tại sao đáp ứng này lại xảy ra, nhất là khi chữ viết gây ra một cảm xúc có thể chuyển qua bán cầu não trái qua mép trước chưa bị cắt, để gây ra đáp ứng lời nói.
Như vậy hai nửa bán cầu não có những khả năng độc lập về ý thức, về trí nhớ, về thông tin, về điều hòa vận động. Thể chai cần để hai bên bán cầu não hợp tác hoạt động. Còn mép trước giữ vai trò quan trọng trong việc thống nhất các đáp ứng cảm xúc của hai bán cầu.
4. Hiện tượng điện
Ghi nhận những biến đổi về điện ở mặt ngoài não hay da đầu, cho thấy có hoạt động điện liên tục của não. Cường độ và kiểu mẫu của hoạt động điện não tùy thuộc nhiều yếu tố như trạng thái thức hay ngủ, tuổi, vị trí của điện cực đo, có bệnh về não như động kinh hay tâm thần không. Các dạng sóng điện não được trình bày ở hình 59.12.
Tập hợp tất cả những sóng điện não ghi nhận được, gọi là điện não đồ.
4.1.Các loại sóng điện não người bình thường
Điện thế của sóng điện não ghi nhận ở bề mặt sọ, thay đổi từ 0 đến 200 milivolts, và tần số thay đổi từ 1 nhịp trong vài giây tới 50 nhịp hay hơn nữa mỗi giây.
4.1.1.Sóng alpha (a)
Là sóng đồng bộ có tần số từ 8 – 13 chu kỳ trong 1 giây, điện thế thường khoảng 50 microvolts. Sóng alpha xuất hiện mạnh nhất ở vùng chẩm, nhưng cũng có thể ghi nhận ở vùng đỉnh và vùng trán của sọ. Sóng này có ở điện não đồ của hầu hết những người bình thường trưởng thành, khi họ đang thức và não ở trạng thái nghi ngơi, yên tĩnh. Khi ngủ sâu sóng biến mất, khi thức nhưng người đó tập trung suy nghĩ, thì sóng a sẽ được thay thế bằng sóng p. Sóng có dạng hình sin và tạo thành từng thoi kéo dài chừng 5-10 giây.
4.1.2.Sóng beta (p)
Là sóng có tần số từ 14- 80 chu kỳ/giây, biên độ từ 5 – 20mV, không đồng bộ, thường ghi nhận ở vùng đinh và vùng trán của sọ, khi hoạt động tinh thần nhiều hoặc căng thẳng, hay kích thích hệ thần kinh trung ương mạnh do giác quan (như mở mắt).
4.1.3.Sóng thêta (0)
Có tần số từ 4 đến 7 chu kỳ/giây, biên độ trung bình khoảng 50mV, xuất hiện chính yếu ở vùng đinh và thái dương của trẻ em, nhưng cũng xuất hiện khi có stress gây xúc động ở một vài người lớn, đặc biệt khi thất vọng, bực mình; sóng 0 cũng xuất hiện trong các trường hợp bệnh lý của não, thường ở trạng thái não thoái hóa hoặc khi ngủ (giai đoạn giấc ngủ sóng chậm).
4.1.4.Sóng delta
Là các sóng điện não có tần số dưới 3,5 chu kỳ/giây. Sóng này xuất hiện khi ngủ sâu, ở trẻ con, hoặc khi có tổn thương thực thể nặng ỏ’ não. Sóng này xuất hiện ở vỏ não của động vật bị tách vỏ não khỏi đồi thị. Như vậy, sóng delta có thể xuất hiện ở vỏ não, hoạt động độc lập với các vùng dưới vỏ.
4.2.Nguồn gốc của các sóng điện não
Sự khử cực của một tế bào thần kinh ở não không bao giờ ghi được ở da đầu. Muốn ghi được điện não xuyên qua hộp sọ thì phải có hàng ngàn hoặc hàng triệu tế bào thần kinh phát xung cùng một lúc (đồng bộ nhau). Cường độ của sóng điện não được xác định chính yếu bởi số lượng tế bào thần kinh và sợi cùng phát xung một lúc chứ không phải là tổng mức hoạt động điện của não. Trong thực tế, những tín hiệu thần kinh mạnh nhất không đồng bộ thường tiêu hủy lẫn nhau, vì chúng có cực đối nhau, nên sóng điện não ghi được thường yếu.
Khi mắt nhắm, sự phát xung đồng bộ của nhiều tế bào thần kinh ở vỏ não với tần số vào khoảng 12 chu kỳ/giây cho ra sóng a. Khi mắt mở, hoạt động của não tăng lên rất lớn, nhưng sự đồng bộ của các tín hiệu thì nhỏ, đến nỗi các sóng não trở nên yếu về cường độ, và có tần số không đều gọi là sóng beta.
Nguồn gốc của sóng alpha: Sóng alpha không xuất hiện ở vỏ não bị cắt đứt liên lạc với đồi thị. Kích thích nhân lưới không đặc hiệu xung quanh đồi thị, cũng như là nhân rải rác ở trong sâu của đồi thị, thường tạo ra sóng trong hệ thống đồi thị – vỏ não với tần số từ 8- 13 chu kỳ/gi ây của sóng alpha. Như vậy dường như sóng alpha là hậu quả của sự dao động phản hồi tự nhiên của hệ thống đồi thị – vỏ não, có thể bao gồm cả hệ thống lưới ở thân não. Sự dao động này có thể là nguyên nhân gây ra tính cách chu kỳ của sóng a, và sự hoạt hóa đồng bộ hàng triệu tế bào vỏ não.
Nguồn gốc của sóng delta: Khi cắt các sợi thần kinh từ đồi thị lên vỏ não, làm mất sự hoạt hóa của đồi thị lên vỏ não, người ta thấy mất sóng a, nhưng không làm mất tất cả sóng delta ở vỏ não.
Điều này cho thấy vài cơ chế tự đồng bộ hóa có thể xảy ra ở tế bào vỏ não, độc lập với những cấu trúc dưới vỏ để tạo ra sóng delta.
Sóng delta cũng xuất hiện trong giấc ngủ sâu, khi vỏ não đã được giải phóng khỏi ảnh hưởng hoạt hóa của những trung tâm dưới vỏ..
4.3.Sự thay đổi của EEC trong những giai đoạn khác nhau của sự thức tỉnh và ngủ
- Khi còn thức và tinh táo, suy nghĩ, ghi được sóng p có tần số cao. Khi còn thức, nhưng không suy nghĩ, im lặng nhắm mắt ghi được sóng a.
- Giấc ngủ sóng chậm được chia thành 4 giai đoạn kéo dài trong khoảng từ 30 phút đến 45 phút.
- Giai đoạn 1: giấc ngủ rất nông, điện não có điện thế thấp (sóng 0) bị ngắt quãng bởi các “thoi giấc ngủ ” tức là những đợt sóng alpha hình thoi. Vào giai đoạn 2, 3 và 4 của giấc ngủ, tần sô’ của sóng điện não trở nên ngày càng chậm, đến khi chi còn 1 đến 3 sóng mỗi giây, đây là những sóng delta điển hình ở giai đoạn 4.
- Giấc ngủ cử động mắt nhanh: Sóng điện não đột ngột chuyển sang tính chất ở giai đoạn còn thức, sóng beta, chứng tỏ hoạt động thần kinh gia tăng nhưng không đồng bộ, vì vậy còn gọi là giấc ngủ không đồng bộ, vào giai đoạn này mắt có cử động rất nhanh, mặc dù người ta vẫn đang ngủ.
4.4.Động kinh
Là tình trạng hoạt động quá mức không kiểm soát được của một phần, hoặc toàn thể hệ thần kinh trung ương, gây ra co giật một phần, hoặc toàn cơ thể, và có sự thay đổi điện não.
Có 3 loại động kinh chính: động kinh cơn lớn, động kinh cơn nhỏ, động kinh cục bộ.