Bệnh cảnh lâm sàng “thấp khớp” tương ứng với một số bệnh khó phân loại. Tuổi của bệnh nhân, những dấu hiệu kết hợp, khám nghiệm sinh học, dạng tiến triển của bệnh, hướng chẩn đoán. Nhưng cần đặt ra tất cả giả thuyết một cách có hệ thống khi chấn đoán:
Không gọi “thấp khớp” một
– Bệnh xương:
. Loãng xương;
. Tăng năng tuyến cận giáp;
. Đa u tủy, di căn ở xương, bệnh Paget, v.v…
. Bệnh khớp tabes.
– Bệnh dây thần kinh gây đau:
. Viêm đa dây thần kinh;
. Bệnh thần kinh đái tháo đường;
. Đau dây thần kinh.
– Viêm đa cơ;
– Một số trường hợp (“đau nhiều nơi” và viêm mô tế bào đau ở bệnh nhân có thể địa suy nhược tâm thần kinh.
MỘT SỐ BỆNH
BỆNH HƯ KHỚP: Trên nguyên tắc tốc độ máu lắng bình thường, thường cơn đau giảm khi nghỉ ngơi. Định nơi đau bất cứ chỗ nào trong cơ thể.
. Bệnh hư khớp háng, bệnh hư khớp gối;
. Bệnh thấp khớp sông;
. Hư khớp ngón tay (nổi cục Heberden – Bouchard, hư khớp gốc ngón tay cái (rhizarthrose: arthrosis of the proximal joint of a limb, or of a finger), v.v…
- BỆNH GÚT MẠN:
. Sưng từng cục méo mó, cục kết urat (tôphi) ở bàn chân, ở đầu gối, ở bàn tay, ở khuỷu tay, (nhưng không khi nào ở háng, ở vai, ở cột sống);
. Dấu hiệu trên phim X-quang: rỗng và khuyết nhất là ở đốt xương bàn chân, ở ngón chân, ở ngón tay, cộng với kẹp khớp và gai xương;
. Dịch ở khớp: có nhiều bạch cầu, có tinh thể urat trong bạch cầu;
- Bệnh gút giả: vôi hóa sụn, vi tinh thể pyrophosphat vôi.
- VIÊM ĐA KHỚP DẠNG THẤP (xem: bệnh thấp đa khớp dạng cấp).
- THẤP KHỚP DO LIÊN CẦU KHUẨN Ở NGƯỜI LỚN, có thể kéo dài nhiều tháng, khởi phát bằng viêm họng, đôi khi đã quên lúc mới xảy ra.
- THÁP KHỚP VẨY NÊN: trái ngược với viêm đa khớp dạng thấp, bệnh này xảy ra ở các khớp gian cốt một của ngón, không đối xứng và thường có tổn thương móng; bệnh xảy ra ở cột sống và khớp cùng chậu: phản ứng Waaler – Rose âm tính.
- LUPUS BAN Đỏ: xảy ra ở phụ nữ trẻ, huyết thanh chẩn đoán thấp khớp thường dương tính.
- VIÊM KHỚP CHẬU – CỘT SỐNG (viêm cứng khớp sống).
- NHỮNG BỆNH HIẾM KHI XẢY RA HƠN:
- Bệnh thấp khớp do ký sinh trùng: bệnh giun chỉ (viêm một khớp của đầu gối hoặc viêm đa khớp các khớp nhỏ);
- Thể khớp của bệnh sarcoit (có hoặc không có ban đỏ nút).
- Thoái hóa dạng tinh bột nguyên phát (ban xuất huyết, hội chứng ống khôi xương cổ tay, lưỡi to);
- Nhiễm sắc tố sắt;
- Vô gamma globulin – huyết;
- Tăng hồng cầu hình liềm (có khả năng hoại tử xương ở hai bên háng);
- Viêm đa khớp dạng cận ung thư, bệnh xương phì đại có hình chỗ chứa hơi (ung thư phổi); viêm mô mỡ dưới da Weber – Christian (ung thư tụy);
- Hội chứng Muckle – Wells; viêm khớp, điếc, nổi mày đay (bệnh có tính cách gia đình kèm với thoái hóa dạng tinh bột ở thận).
2. Bất thường khi nào?
- AFP tái xuất hiện với tỷ lệ rất cao (1000 đến 3000 nanogram) trong ung thư gan nguyên phát (60 đến 80% trường hợp), cũng như trong u quái nguyên bào (teratoblastoma) nhất là căn nguyên từ tinh hoàn.
- Tỷ lệ củng tăng, nhưng ít hơn, trong:
- Ưng thư nhiễm trùng;
- Ung thư tụy tạng;
- Ung thư trực tràng;
- Di căn ở gan
- Rất hiếm trong: ung thư dạ dày, phổi, vú, cơ quan sinh dục khác, tuyến giáp trạng (ung thư có chất đệm dạng tinh bột).
AFP có thể tăng nhưng rất ít, trong những trường hợp khác nhau:
- Nhiễm trùng hô hấp;
- Loét dạ dày tá tràng;
- Xơ gan;
- Viêm gan;
- Viêm tụy;
- Nhiễm sắc tố sắt;
- Mất điều hòa; giãn mao mạch (ataxie télangectasic), tức hội chứng Louis Bar;
- Viêm loét kết tràng (viêm trực kết tràng chảy máu);
- Bệnh Crohn;
- Và ở những người nghiện thuốc lá nặng.
Như thế, giá trị chẩn đoán còn phải bàn. Nhưng theo dõi đều đặn bằng cách đo kháng nguyên này ở người bị ung thư kết tràng tiết kháng nguyên, đã mổ, rất có giá trị: tỷ lệ phải trở lại bình thường mau chóng sau khi mổ và phải ở mức độ đó.
Ghi chú:
- LOUIS BAR: Mất diều hòa, giãn mao mạch. Bệnh di truyền thể hiện từ thuở bé, kết hợp:
- Hội chứng tiểu não, thường kèm thêm hội chứng ngoài tháp, cử động múa giật – múa vờn và rối loạn vận động nhãn cầu.
- Giản mao mạch ở kết mạc, ỗ màn hầu, ở cổ.
- Nhiễm khuẩn tái di tái lại, nhất là ở hệ hô hấp, thường gây từ vong.
- Trong tiến trình có thể phát hiện bệnh Hodgkin, bệnh sarcom – lympho hoặc bệnh sarcom – lưới, với thiếu miễn dịch – tế bào và đôi khi thiếu miễn dịch – thể dịch.
- Trong trường hợp thiếu miễn dịch – thể dịch này có kèm theo giảm sản ở những tạng sinh bạch huyết, giảm tỷ lệ tương bào và giảm các kháng thể huyết tương (IgA hoặc IgG). ’
- CROHN: Viêm đoạn cuối ruột non. Viêm loét và hẹp ỗ một đoạn ruột non, thường khu trú ở đoạn cuối và có kết hợp với viêm đại tràng cùng loại. Nang và hạch bạch huyết tăng sinh quan trọng. Bệnh Crohn có thể khởi đầu cấp tính hoặc bán cấp đội lốt viêm ruột thừa và thường tiến triển theo chiều hướng mạn tính gây suy mòn với tiêu chảy dai dắng, bán tắc ruột non và mưng mủ. Nguyên nhân chưa được biết.
Bạn có thể tìm hiểu thêm về dịch vụ của trung tâm bác sĩ gia đình tại đây: https://bsgiadinh.vn/kham-benh-tai-nha/
Hoặc có thể gọi ngay số điện thoại sau để được tư vấn trực tiếp.