TUYẾN GIÁP

Tuyến giáp nằm ở ngay dưới thanh quản, ỏ hai bên và phía trước của khí quản, nó bài tiết hai hormon quan trọng là thyroxin và triiodothyronin, còn gọi là T, và T4. Nó còn bài tiết calcitonin, một hormon quan trọng trong chuyển hóa calci. Khoảng 93 phần trăm hormon được tuyến giáp bài tiết là thyroxin, và chi có 7 phần trăm là triiodothyronin. Tuy nhiên phần lớn thyroxin thường được chuyển thành triiodothyronin trong các mô. Chức năng của hai hormon này là giống nhau, nhưng khác nhau về cường độ và thời gian tác dụng. Triiodothyronin mạnh hơn thyroxin khoảng 4 lần, nhưng nó có mặt trong máu với số lượng nhỏ hơn nhiều, và tác dụng trong thời gian ngắn hơn nhiều so với thyroxin.

Nội dung bài viết ẩn

1.Sơ lược cấu trúc của tuyến giáp

Tuyến giáp gồm một số lớn các nang tuyến, đường kính khoảng từ 100 đến 300
micromet, trong chứa đầy chất tiết, gọi là chất keo. Thành của nang gồm những tế bào biểu mô hình trụ, nó bài tiết các chất vào trong lòng nang, cấu tạo chính của chất keo là một glycoprotein lớn, chất thyroglo- bulin, nó chứa các hormon giáp trong phân tử. Tế bào tuyến bài tiết vào trong nang, rồi hormon phải được hấp thụ trở lại qua tế bào biểu mô của nang vào máu, để phân phối khắp cơ thể. Tuyến giáp nhận được một lượng máu lớn gấp 5 lần trọng lượng của tuyến trong một phút.

2. Nhu cầu iốt cho sự tạo thành hormon giáp

Mỗi tuần, một người bình thường cần 1 mg iốt để tạo hormon giáp. Đề phòng thiếu iốt, muối ăn thường được iốt hóa, với một phần natri iodur trộn với 100.000 phần natri clorur.

 lodur ăn vào được hấp thu qua ống tiêu hóa vào máu, bình thường, phần lớn iodur này được bài xuất nhanh qua thận, và chi khoảng một phần năm số đó được vận chuyển từ máu tuần hoàn đến tế bào tuyến giáp, để tổng hợp hormon giáp.

Giai đoạn đầu của sự tạo thành hormon giáp là vận chuyển iodur từ máu vào tế bào giáp và các nang. Màng đáy của tế bào giáp có khả năng đặc biệt là bơm iodur một cách tích cực vào trong tế bào. ở một tuyến bình thường, nồng độ iodur trong tuyến cao gấp 30 lần nồng độ của nó trong máu. Khi tuyến giáp hoạt động ở mức tối đa, nồng độ của nó có thể cao gấp 250 lần.

3.Thyroglobuiinvà roxin và triiodothyronin

3.1. Sự tạo thành và bài tiết thyroglobulin của tế bào giáp

Lưới nội bào tương và bộ Golgi của tế bào tuyến giáp tổng hợp và bài tiết vào trong nang một phân tử glycoprotein lớn, gọi là thyroglobulin, trọng lượng phân tử khoảng
335.000. Mỗi phân tử thyroglobulin chứa 70 amino axít là tyrosin, là chất chính kết hợp với iốt để tạo thành hormon giáp.

3.2.Sự oxít hóa ion iodur

Bước cơ bản đầu tiên trong sự tạo thành hormon giáp là chuyển ion iodur thành dạng oxít hóa của iốt, rồi chất này có khả năng gắn trực tiếp với amino axít tyrosin.

Sự oxít hóa iốt được đẩy mạnh bởi en- zym peroxidaz và hydro peroxit kèm theo.

Peroxidaz có ở trong màng đinh của tế bào, như vậy cung cấp iốt oxít hóa ngay ở điểm trong tế bào, mà phân tử thyroglobulin tạo ra từ bộ Golgi, và rồi qua màng vào chất keo dự trữ. Khi hệ peroxidaz bị phong bế, hay không có do di truyền tế bào, thì hormon giáp sê không được tạo thành.

3.3.Sự lốt hóa tyrosin và sự tạo thành hormon giáp

Khi phân tử thyroglobulin được giải phóng từ bộ Golgi, hay được bài tiết qua màng đinh của tế bào vào trong nang, iốt oxít hóa gắn với khoảng một phần sáu của amino axít tyrosin trong phân tử thyroglobulin, dưới tác dụng xúc tác của men iodinaz. Tyrosin đầu tiên được iốt hóa thành monoiodotyrosin, rồi diiodotyrosin. Sau đó ít phút, hàng giờ, hay thậm chí hàng ngày, một phân tử monoiodotyrosin kết hợp với một phân tử diiodotyrosin để tạo thành triiodothyronin (T3), chiếm khoảng một phần mười lăm của hormon dự trữ. Hay hai phân tử diiodotyrosin kết hợp với nhau để tạo thành một phân tử tetra-iodothyronin (T4) hay thyro-xin, là hor- mon chính.

Mỗi phân tử thyroglobulin chứa 30 phân tử T4 và vài phân tử T3. Hormon giáp được dự trữ trong các nang, với số lượng đủ dùng với yêu cầu bình thường trong từ 2 đến 3 tháng.

3.4, Sự giải phóng thyroxỉn và triiodothyronin từ tuyến giáp

Thyroxin và triiodothyronin được cắt rời khỏi phân tử thyroglobulin, rồi các hormon tự do này được giải phóng vào máu. Quá trình xảy ra như sau: Màng đinh của tế bào giáp thò ra giả túc, và bao lấy một phần nhỏ của chất keo trong nang tuyến, để tạo thành túi ẩm bào, và đi vào qua phần đinh của tế bào giáp. Rồi, ngay lập tức, các lysosom hòa màng với túi này, để tạo thành túi tiêu hóa, mà nó chứa men tiêu hóa từ lysosom hòa với chất keo. Các proteases trong men sẽ tiêu các phân tử thyroglobulin và giải phóng thy- roxin và triiodothyronin. Rồi các hormon này sẽ khuếch tán qua màng đáy của tế bào giáp vào các mao mạch quanh tuyến. Như vậy các hormon được giải phóng vào máu.

Khoảng ba phần tư tyrosin iốt hóa trong thyroglobulin không bao giờ trở thành hor- mon giáp, mà chi ỏ dạng mono vâ diiodotyrosin. Trong quá trình tiêu phân tử thyroglobulin, các tyrosin iốt hóa này cũng được giải phóng, nhưng chúng không được bài tiết vào trong máu, mà phần iốt của chúng bị tách rời ra do men deiodinaz, để tái sử dụng trong tế bào tuyến giáp.

Khoảng 93 phần trăm hormon giáp được tiết ra là thyroxin, chi có 7 phần trăm là tri- iodothyronin. Tuy nhiên, chi trong ít ngày, phần lớn thyroxin bị khử iốt một cách chậm chạp, để tạo thành triiodothyronin. Vì vậy, cuối cùng, hormon được phân phối tới các mô là triiodothyronin, mỗi ngày có khoảng 35 microgram.

3.5.Sự vận chuyển thyroxin và triiodothyronin tới các mô

Khi vào máu, gần như toàn bộ thyroxin và triiodothyronin kết hợp ngay với nhiều protein huyết tương. Chúng kết hợp chính với globulin (thyroxin binding globulin), số còn lại với prealbumin và albumin. Vì ái lực cao của protein huyết tương với các hormon giáp, đặc biệt là với thyroxin, nên chúng được giải phóng vào các tế bào của mô rất chậm. Một nửa thyroxin được giải phóng từ máu vào tế
bào khoảng 6 ngày, còn triiodothyronin vì ái lực thấp hơn, nên một nửa được giải phóng vào tế bào chi trong 1 ngày.

Khi vào trong tế bào, cả hai hormon này lại gắn với protein trong tế bào, nên chúng được dự trữ lại.

Khi tiêm một lượng lớn thyroxin vào cho người, chúng không có tác dụng trên chuyển hóa ngay trong 2-3 ngày đầu, vì thời gian tiềm tàng dài, nhưng một khi đã bắt đầu có tác dụng, nó tăng dần và đạt tới mức tô”i đa từ 10- 12 ngày, thời gian bán hủy là 15 ngày.

Một số hoạt động kéo dài, có khi tới 6 tuần, hay 2 tháng sau.

Tác dụng của triiodothyronin nhanh hơn thyroxin khoảng 4 lần, với thời gian tiềm tàng ngắn từ 6 đến 12 giờ, và tác dụng tối đa trong từ 2 đến 3 ngày.

4. Các tác dụng của hormon tuyến giáp trong các tổ chức tế bào.

4.1. Tác dụng làm tăng sao chép một số lớn gen

Tác dụng chung của hormon giáp là gây ra sự sao chép nhân của một sô” lớn gen. Vì vậy, một số lớn enzym protein, protein câu trúc, protein vận chuyển, và các châ”t khác được tạo thành trong tất cả các tế bào của cơ thể. Kết quả thực sự là hoạt động chức năng của toàn bộ cơ thể tăng lên.

Khoảng 90 phần trăm hormon giáp gắn với thụ thể là triiodothyronin, chi có 10 phần trăm là thyroxin.

Các thụ thể hormon giáp gắn với chuỗi gen của DNA, khi nó kết hợp với hormon giáp, các thụ thể được hoạt hóa và khởi đầu quá trình sao chép. Rồi một số lớn các loại RNA thông tin được tạo thành, sau đó ít phút hay hàng giờ diễn ra quá trình dịch mã RNA ở ribosom của mạng nội bào tương, để tạo thành hàng trăm loại protein khác nhau trong tế bào.

4.2.Tác dụng làm tăng hoạt động chuyển hóa của tế bào

Hormon giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa của toàn bộ tế bào của các mô của cơ thể. Mức chuyển hóa cơ sở có thể tăng từ 60 đến 100 phần trăm trên bình thường, khi một lượng lớn hormon giáp được bài tiết. Mức tổng hợp protein tăng lên, nhưng đồng thời mức dị hóa protein cũng tăng.

  • Trên ty thể: Khi hormon giáp được đưa vào một con vật, các ty thể của hầu hết tế bào tăng lên về kích thước và số lượng. Vì vậy, chức năng chính của hormon giáp là tăng số lượng và hoạt động của ty thể, để tăng tạo năng lượng dự trữ dưới dạng ATP.

Khi nồng độ hormon giáp tăng cao trong máu, ty thể phình ra một cách bất thường, và có sự mất cân đối giữa hai quá trình oxít hóa và phos-phoryl hóa, nó tạo ra một lượng lớn nhiệt, nhưng rất ít ATP được dự trữ.

  • Đối với sự vận chuyển các ion qua màng tể bào: hormon giáp hoạt hóa men Na, K-ATPase, làm tăng mức vận chuyển của cả hai ion Na+ và K+ qua màng tế bào. Vì quá trình này sử dụng nhiều năng lượng, và sinh nhiều nhiệt, nên đó là một trong những cơ chế mà hormon giáp làm tăng mức chuyển hóa của cơ thể.

4.3.Tác dụng của hormon giáp trên sự phát triển cơ thể

Hormon giáp có tác dụng đặc biệt trên sự phát triển cơ thể. Thí dụ, ở loài lưỡng thê, hormon giáp có tác dụng trên sự biến hình, chuyển con nòng nọc có đuôi sống ở dưới nước thành con ếch không có đuôi sống trên cạn, không có hormon giáp con nòng nọc không biến hình được, ở người, hormon giáp làm phát triển cơ thể ở trẻ em, người bị suy giáp, mức phát triển chậm hẳn đi, còn ở người
cường giáp, xương phát triển nhanh, làm cho trẻ em trở thành cao lớn hơn trước tuổi. Tuy nhiên, xương cũng trưởng thành nhanh hơn, làm đóng các đầu xương dài, chiều cao cũng không hơn người bình thường.

Tác dụng quan trọng của hormon giáp là làm phát triển bộ não trong thời kỳ bào thai, và trong những năm đầu sau khi sinh. Nếu bào thai không bài tiết đủ số lượng thyroxin, sự phát triển và trưởng thành của não cả trước và sau khi sinh sẽ chậm đi nhiều, và não nhỏ hơn bình thường, ảnh hưởng lớn đến trí tuệ.

4.4.Tác dụng trên chuyển hóa gluxit

Hormon giáp kích thích tất cả các dạng của chuyển hóa gluxit, bao gồm: đưa nhanh glucoz vào tế bào, tăng tiêu thụ glucoz, tăng sinh đường mới, tăng hấp thu glucoz từ bộ máy tiêu hóa, và tăng bài tiết insulin do đường huyết tăng. Tất cả các tác dụng trên là do hormon giáp làm tăng các enzym chuyển hóa trong tế bào.

4.5.Tác dụng trên chuyển hóa lipit

Hormon giáp làm tăng sự huy động lipit từ các mô mỡ, do đó làm tăng nồng độ axít béo tự do trong huyết tương, T3, T4 cũng thúc đẩy sự oxít hóa các axít béo tự do trong tế bào.

Hormon giáp làm giảm số lượng choles- terol, phospholipit, và tríglycerit trong huyết tương, mặc dù nó làm tăng axít béo tự do.

Trong suy giáp, nồng độ cholesterol, phos- pholipit và triglycerit trong huyết tương tăng, gan dự trữ nhiều lipit, đó là điều kiện thuận lợi để phát triển bệnh xơ vữa động mạch. Một trong những cơ chế mà hormon giáp làm giảm nồng độ cholesterol huyết tương, là nó làm tăng mức bài tiết cholesterol vào trong mật, và mất đi trong phân. Do nó làm tăng số thụ thể của lipoprotein có tỷ trọng thấp ở tế bào.gan, dẫn đến sự bắt giữ các lipoprotein có tỷ trọng thấp từ huyết tương, và sự bài tiết cholesterol của lipoprotein do tế bào gan.

4.6.Tác dụng trên nhu cầu các vitamin

Vì hormon giáp làm tăng số lượng các en- zym, và vì vitamin là thành phần chính của các enzym, nên nó làm tăng nhu cầu các vi- tamin. Do đó khi tăng bài tiết hormon giáp, sẽ gây thiếu tương đối các loại vitamin.

4.7.Tác dụng trên trọng lượng cơ thể

Tăng hormon giáp thường làm giảm trọng lượng cơ thể, còn suy giáp làm tăng trọng lượng cơ thể, do nó tác dụng đến chuyển hóa cơ thể.

4.8.Tác dụng trên hệ tuần hoàn

  • Dòng máu và lưu lượng tim: Sự tăng chuyển hóa trong các mô làm tăng sử dụng oxy hơn bình thường và tạo ra nhiều sản phẩm chuyển hóa tế bào. Các sản phẩm này gây giãn mạch, làm tăng dòng máu, đặc biệt là tăng dòng máu ở da, do nhu cầu thải nhiệt.
  • Nhịp tim: Hormon giáp làm tăng nhịp tim, do nó tác dụng trực tiếp đến tính chịu kích thích của tim, ngoài ra nó còn tác dụng gián tiếp qua hệ giao cảm.
  • Áp suất động mạch: Áp suất động mạch trung bình thường không thay đổi. Tuy nhiên, vì nó làm tăng nhịp tim, nên áp suất tâm thu tăng, nhưng vì nó làm giãn mạch ngoại biên, nên áp suất tâm trương giảm tương ứng.

4.9.Tác dụng trên hô hấp

Vì hormon giáp làm tăng chuyển hóa, nên sự sử dụng oxy tăng và tạo ra nhiều C02.

Chat này có tác dụng làm tăng nhịp và độ sâu của hô hâp, thông qua các trung tâm điều hòa.

4.10.Tác dụng trên tiêu hóa

Hormon giáp làm tăng cả mức bài tiết các dịch tiêu hóa và cử động của đường tiêu hóa, nhu động mạnh có thể gây tiêu chảy. Thiếu hormon giáp thường gây táo bón.

4.11.Tác dụng trên hệ thần kinh trung ương

Hormon giáp làm tăng hoạt động của não và hệ thần kinh nói chung, khi suy giáp hoạt động này giảm, ớ người cường giáp, hệ thần kinh bị kích thích mạnh, có khuynh hướng thần kinh tâm lý như lo lắng, bực tức quá mức.

4.12.Tác dụng trên chức năng của cơ

Tăng nhẹ hormon làm cho cơ hoạt động mạnh, nhưng khi lượng hormon cao, cơ trở nên yếu, vì protein cơ bị dị hóa quá mức.

Mặt khác khi suy giáp, cơ trở nên chậm chạp, và chúng giãn chậm sau khi co.

Run cơ:một trong những dấu hiệu đặc biệt của cường giáp là run cơ nhanh, với tần số chừng 10-15 lần/sec, không phải run kiểu bệnh Parkinson. Run cơ có thể thấy rõ bằng cách đặt một tờ giấy trên các ngón tay, và xem mức độ rung của tờ giấy.

Sự run này là do tăng tính dẫn truyền của các xináp của các neuron vùng tủy mà nó kiểm soát trương lực cơ. Run là dấu hiệu quan trọng đánh giá mức độ tác dụng của hormon giáp trên hệ thần kinh trung ương. Bệnh nhân thường xuyên mệt và khó ngủ.

4.13.Tác dụng trên các tuyến nội tiết khác

Hormon giáp làm tăng mức bài tiết của phần lớn các tuyến nội tiết khác. Thí dụ: cường giáp sẽ làm tăng glucoz huyết, cái đó kích thích tuyến tụy tiết nhiều insulin. Cũng thế, hormon giáp làm tăng hoạt động chuyển hóa liên quan đến sự tạo xương, cái đó làm tăng nhu cầu đối với hormon cận giáp. Nó còn làm tăng lượng glucocorticoit của tuyến thượng thận bị bất hoạt hóa do gan, dẫn tới kích thích tuyến yên trước bài tiết nhiều ACTH, và kích thích tuyến vỏ thượng thận bài tiết nhiều glucocorticoit.

4.14. Tác dụng trên chức năng sinh dục

Ở nam giới, thiếu hormon giáp sẽ làm mất khả năng sinh dục, còn cường giáp gây ra bất lực sinh dục. ở phụ nữ, thiếu hormon giáp gây nên rong kinh và chảy máu nhiều, mất khả năng sinh dục. Còn cường giáp gây ít kinh, đôi khi không có kinh.

Các tác dụng của hormon giáp được tóm tắt trong bảng 38.1.

5.Sự điều hòa bài tiết hormon giáp

  • Hormon giáp được điều hòa mức bài tiết bởi hormon TSH của tuyến yên trước, và TSH lại được điều hòa bài tiết bởi hor- mon TRH ở vùng dưới đồi (Hình 38.3). TRH có tác dụng kích thích yên trước bài tiết TSH, chất này kích thích tuyến giáp, làm tăng kích thước và số Ịượng tế bào giáp, và làm tăng giải phóng hormon giáp vào máu. Khi hor- mon giáp tăng lên trong máu, nó lại gây ức chế trở về tuyến yên trước và vùng dưới đồi.
  • Khi bị lạnh, hay xúc cảm cũng gây giải phóng TRH và TSH, do đó làm tăng bài tiết hormon giáp, để tăng sản nhiệt chống lạnh.

6.Các chất kháng tuyến giáp

Các thuốc ức chế sự bài tiết hormon của e tuyến giáp được gọi là các chất kháng tuyến giáp, như: thiocyanat, propylthiouracil, và nồng độ cao iodur vô cơ. chế tác dụng của chúng là như sau :

  • Các ion thiocyanat làm giảm sự bắt giữ iodur của tuyến giáp:Hoạt động bơm ion iodur vào trong tế bào giáp cũng có thể bơm ion íhiocyanat. Do đó nếu cho ion thiocyanat với nồng độ cao sẽ gây ức chế cạnh tranh, nó sẽ bơm ion thiocyanat, và giảm sự bắt giữ iodur của tuyến. Nhưng do thiếu hormon giáp, tuyến yên sẽ tiết nhiều TSH, và làm tuyến giáp nở to thành bướu.
  • Propylthiouracil làm giảm sự tạo thành hormon    giáp:Chất này    một phần là nó ức chế enzym peroxidaz cần cho sự iốt hóa tyrosin, phần khác nó ức chế sự kết hợp ty- rosin iốt hóa để tạo nên T3 và T4. Sự thiếu hormon giáp cũng làm tăng bài tiết TSH, và làm tuyến giáp nở to.
Mục đích Tác dụng Cơ chế
Tim Tăng nhịp Tăng co bópTăng số lượng và ái lực đối với thụ thể p-adrenergic
Tăng đáp ứng với catecholamine
Tăng tỉ lệ myosin a chuỗi nặng (có hoạt tính ATPase cao hơn)
Mô mỡ Di hóaKích thích thủy phân lipit
Dỉ hóaTăng thoái hóa protein
Xương Phát triển Kích thích sự tăng trưởng bình thường và phát triển của xương
Hệ thần kỉnh Phát triển Kích thích sự phát triền bình thường cùa não
Ruột Chuyển hóa Tăng hấp thu carbohydrate
Lipoprotein Chuyển hóa Kích thích sự tổng hợp thụ thể LDL
Khác             Sinh nhiêtTăng sự tiêu thụ oxy bởi các mô hoạt động (trừ: tinh hoàn, tử cung, hạch lymphô, lách, tuyến yên trước)
Tăng tốc đô chuyển hóa                                                           
  •  Iodur làm giảm động giáp: Khi iodur có liều cao trong máu, gấp 100 lần mức bình thường, thì phần lớn hoạt động của tuyến giáp bị giảm, nhưng chi trong vài ba tuần lễ. Nó làm giảm mức bắt giữ iodur, mức iốt hóa tyrosin để tạo ra hormon giáp cũng giảm, một tác dụng quan trọng nữa là nó làm liệt sự chuyển chất keo từ nang vào tế bào tuyến, một bước quan trọng để giải phóng hormon vào máu.

7.Các bệnh  của  tuyến giáp

7.1. Cường giáp

Phần lớn bệnh nhân cường giáp, tuyến giáp tăng kích thước lên gấp từ hai đến ba lần bình thường. Tế bào tăng sinh và tăng mức bài tiết lên gấp từ 5 đến 15 lần so với bình thường.

Những thay đổi của tuyến giáp tương tự như khi tuyến yên bài tiết quá nhiều TSH.Tuy nhiên, dùng thử nghiệm miễn dịch phóng  Hình 38,3. Điều hòa bài tiết hormon giáp (Theo Ganong W.F. Review of Medical Physiology, 18′h ed., Appleton & Lange, Connecticut, USA, 1997, trang 306)  xạ (RIA), thấy nồng độ TSH huyết tương còn thấp hơn bình thường, nhưng trong máu của phần lớn các bệnh nhân này lại thấy có những chất khác có tác dụng tương tự như TSH.

Những chất này là kháng thể globulin miễn dịch, mà nó cũng gắn với thụ thể màng của TSH. Khi gắn, chúng gây ra hoạt hóa liên tục hệ thông cAMP của tế bào, dẫn đến cường giáp. Những kháng thể này được gọi là globulin miễn dịch kích thích tuyến giáp (thyroid stimulating immunoglobulin: TSI).Chúng có tác dụng kích thích kéo dài trên tuyến giáp, gấp 12 lần so với TSH, đồng thời mức hormon giáp cao, có tác dụng ức chế tuyến yên, giảm bài tiết TSH.

Đây là một bệnh tự miễn, ở một người mà các tế bào giáp bài tiết quá nhiều kháng nguyên, cái đó dẫn đến sự tạo thành kháng thể chống lại ngay chính tuyến giáp.

Cường giáp còn do u của tổ chức giáp, nó bài tiết một lượng lớn hormon giáp. Bệnh này khác với bệnh tự miễn là, phần u thì bài tiết quá nhiều hormon giáp, còn phần lành còn lại thì hầu như bị ức chế hoàn toàn, vì tuyến yên bị ức chế, nên không bài tiết TSH.

Các triệu chứng của cường giáp

Các triệu chứng của cường giáp là gồm các tác dụng quá mức của hormon giáp đã tả trên, bao gồm: tăng sản nhiệt, không chịu được nóng, chuyển hóa cơ sở tăng cao, thần kinh bị kích thích, tăng tiết mồ hôi, giảm cân nặng, yếu cơ, rối loạn thần kinh và tâm thần, người mệt mỏi, khó ngủ, và run tay.

Triệu chứng lồi mắt: Khoảng một phần ba số người cường giáp, nhãn cầu bị lồi ra phía trước, một số người bị lồi mắt nặng, làm kéo căng dây thần kinh thị giác, có thể dẫn đến mù. Tổn thương mắt thường xuyên gây ra là do mí mắt không đóng kín được khi chớp mắt hay khi ngủ, làm bề mặt biểu mô mắt trở nên khô, và thường dễ bị nhiễm khuẩn, dẫn đến loét giác mạc.
 Nguyên nhân dẫn đến lồi mắt là do phù các tổ chức sau nhãn cầu, đẩy nhãn cầu ra phía trước, và những thay đổi thoái hóa của các cơ ngoài mắt. ở phần lớn bệnh nhân, có thể thấy nhiều globulin miễn dịch trong máu, mà nó phản ứng với các cơ mắt. Vì vậy có thể tin rằng, lồi mắt cũng như cường giáp, là một quá trình tự miễn.

7.2.Suy giáp

Suy giáp cũng giống như cường giáp, thường là do bệnh tự miễn, chống lại tuyến giáp, nhưng khác là ở đây có phá hủy tuyến giáp thay vì kích thích. Các bệnh nhân này, đầu tiên là tuyến giáp bị viêm, dần dần dẫn đến hủy hoại và cuối cùng là xơ hóa tuyến, kết quả là giảm hay ngừng bài tiết hormon giáp. Còn nhiều loại suy giáp khác lại phát triển tuyến giáp quá mức, gọi là bướu giáp.

Ở một số vùng dân cư, nhất là vùng núi và trung du, trong đất và thực phẩm thiếu iốt, do đó tuyến giáp bắt giữ được rất ít iốt, không đủ để tạo ra các hormon T4 và T3, nhưng nó vẫn tạo ra đủ các thyroglobulin.

Thiếu hormon giáp, nên không ức chế tuyến yên, nó tiết nhiều TSH, kích thích tuyến giáp, do đó tuyến giáp tăng sinh và tiết nhiều chất keo thyro-globulin, làm cho tuyến nở to, có khi gấp từ 10 đến 20 lần so với bình thường, cái đó được gọi là bướu cổ địa phương. Đề phòng bằng cách ăn muối có iốt. Các triệu chứng của suy giáp bao gồm: người mệt mỏi, buồn ngủ, và có thể ngủ từ 12 đến 14 giờ một ngày, cơ yếu nhiều, nhịp tim chậm, giảm lưu lượng tim, giảm thể tích máu, tăng trọng, táo bón, tinh thần chậm chạp, suy chức năng dinh dưỡng của cơ thể, như kém phát triển lông, tóc, móng. Trong những trường hợp nặng, có thể bị phù niêm dịch, bệnh nhân có quầng lớn dưới mắt, mặt phù. Trong điều kiện này, có một lượng lớn axít hyaluronic và sulfate chondroitin gắn với protein, tạo thành gel trong khoảng khe, làm dịch khe tăng lên. Vì bản chất gel của dịch, nên chúng không di động, và thuộc loại phù cứng, ấn không lõm.

Bệnh xơ vữa động mạch trong suy giáp: thiếu hormon giáp làm tăng lượng choles- terol trong máu, do gan giảm sự bài xuất cho- lesterol vào mật. Tăng cholesterol máu thường kết hợp với sự tăng xơ vữa động mạch, dễ dẫn đến tai biến mạch vành tim.

7.3. Bệnh đần độn

Nếu suy tuyến giáp từ thời còn bào thai, sau khi sinh, hay tuổi thơ ấu, sẽ làm cơ thể không phát triển, và đặc biệt là não không phát triển, làm tinh thần, trí khôn rất chậm chạp, được gọi là bệnh đần. Nguyên nhân do thiếu tuyến giáp bẩm sinh, khiếm khuyết về di truyền tuyến giáp, hay do thiếu iốt trong khẩu phần ăn. Sự trầm trọng của bệnh do mức độ thiếu iốt, và mức thiếu hormon giáp, nhưng thường nặng hơn ở người lớn.
 

Scroll to Top