Các vấn đề do ung thư đặt ra ở tuổi già không giống ở tuổi trẻ vì người già phản ứng với ung thư khác; hậu quả của bệnh đối với thời gian sống cũng khác; sự cân nhắc lựa chọn phương pháp xử trí cũng có những điềm riêng biệt.
1. Tỉ lệ mắc ung thư
Tăng lên với tuổi, số người bị ung thư trong một năm cho 100.000 dân là
Bảng 2. Tỉ lệ mắc ung thư trên 10 vạn dân trong 1 năm
Tuổi Giới | 30-34 | 50-54 | 70-74 | |
Ở Anh | Nam | 44.9 | 448.3 | 1886.4 |
Nữ | 68.3 | 439.7 | 1014.5 | |
ỏ’ Đan Mạch | Nam | 46.7 | 330.3 | 1597.3 |
Nữ | 92.0 | 424.7 | 1204.4 |
Các tỉ lệ tăng không giống nhau, tùy theo vị trí ung thư. Lấy bệnh Hodg-kin, ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư phế quản, ung thư tuyến tiền liệt làm ví dụ, cũng theo các cuộc điều tra trên, thấy:
Bảng 3. Tỉ lệ mắc một số ung thư chính
Tuổi Ung thư | 30-34 | 50-54 | 70-74 | |
Anh | ||||
Bệnh Hodgkin | Nam | 3.7 | 2.7 | 3.6 |
Nữ | 1.4 | 1.9 | 3.5 | |
Ung thư vú | 18.5 | 134.8 | 192.1 | |
Ung thư cổ tử cung | 8.7 | 37.7 | 32.5 | |
Ung thư phế quản | 4.7 | 165.9 | 514.7 | |
Đan Mạch | ||||
Bệnh Hodgkin | Nam | 4.2 | 3.8 | 8.5 |
Nữ | 2.8 | 2.0 | 6.2 | |
Ung thư vú | 12.4 | 105.6 | 206.8 | |
Ung thư cổ tử cung | 42.1 | 76.7 | 39.0 | |
Ung thư phế quản | 1.8 | 69.0 | 191.6 | |
Ung thư tuyến tiền liệt | 0.0 | 6.1 | 228.1 |
Một số ung thư chỉ gặp ở người già. Một số ung thư khác có thể gặp ở tất cả các lứa tuổi.
2. Phản ứng của cơ thể già đối với ung thư
Quan hệ vật chủ – ung thư theo nghĩa rộng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, thực thể và tâm thần. Tình trạng hocmon của người bệnh đóng một vai trò quan trọng trong việc sinh một số ung thư, trong sự tiến triển của bệnh, và trong mức độ nhạy cảm với điều trị. Ung thư vú ít gặp ở nữ dưới 35 tuổi trong tình trạng mãn kinh do phẫu thuật hơn là ở nữ cùng lứa tuổi vẫn có kinh nguyệt bình thường. Điều trị ung thư vú bằng estrogen không kết quả trong thời gian từ 0 đến 5 năm sau mãn kinh, trong khi 35-40% có kết quả sau giới hạn đó.
Ung thư người già hay phát triển trên cơ địa đã có nhiều bệnh phối hợp. Loãng xương làm xương dễ xẹp, khi bị di căn trên xương. Suy thận làm tăng độ độc của một số hóa chất chống ung thư và lảm hạn chế khả năng sử dụng thuốc. Các bệnh tim mạch làm tăng thêm hậu quả di căn phổi, màng phổi, màng bụng. Như vậy không phải bản thân tuổi già làm cho ung thư có đặc điểm riêng biệt, mà là các bệnh phối hợp thường gặp ở tuổi già.
Thái độ tâm lí ở tuổi già cũng có ảnh hưởng. Phần lớn người già ít để ý đến những triệu chứng sớm và dễ coi thường, coi cũng như các biểu hiện khác, khi có tuổi, vì vậy chẩn đoán thường muộn, do đỏ việc điều trị cũng muộn. Chưa kể thái độ của bản thân thầy thuốc cũng có ảnh hưởng: thầy thuốc có tuổi thường bi quan trước ung thư người già hơn là thầy thuốc trẻ, do đó cũng ít tìm cách điều trị tích cực bằng phương pháp mới.
3. Ảnh hưởng của ung thư đối với thời gian sống còn lại
Vấn đề này thường đặt ra khi tiến hành điều trị ung thư ở người già. Ví dụ như ung thư tuyến tiền liệt, chưa có di căn: nên mổ cắt bỏ tuyến tiền liệt hay nên điều trị bằng hocmon? Điều trị bằng phẫu thuật thì triệt để hơn nhưng cũng có nguy hiểm trước mắt. Điều trị nội khoa bằng hocmon thì không nguy hiểm trước mắt, nhưng chỉ là điều trị tạm thời. Cho đến nay, ý kiến vẫn còn khác nhau giữa hai phương pháp đó.
Trong bệnh học người già cũng có những ung thư không ảnh hưởng gì lắm đối với đời sống cũng như thời gian sống còn lại của người bệnh. Ví dụ như bệnh bạch cầu mãn hoặc một sổ ung thư vú tiến triển chậm. Trong những trường hợp này, đa số tác giả chủ trương không nên can thiệp. Tuy nhiên, cũng cần nói là những trường hợp đó không nhiều, vả trong nhiều trường hợp phải tim cách điều trị ung thư cho người già.