PHOSPHATASE ACID

(Phosphatases Acides, Phosphatases Acides Prostatiques / Acid Phosphatase, Prostatic Acid Phosphatase [PAP], Serum Add Phosphatase Test, Tartrate-resistant Acid Phosphatase [TRAP] Test)

Nhắc lại sinh lý

Phosphatase acid, là một enzym thủy phân được một loạt các loại tế bào bài tiết và bao gồm 5 isoenzym. Enzym này còn được biết như phosphatase acid tuyến tiền liệt (prostatic acid phosphatase [PAP]) do nếu tính theo khối lượng (gam) mô enzym được tìm thấy chủ yếu tại tuyến tiền liệt (với hoạt độ cao nhất được tìm thấy trong tinh dịch). Enzym này được tìm thấy với hoạt độ thấp hơn ở thận, gan, lách, tủy xương, hồng cầu và tiểu cầu. Xét nghiệm định lượng phosphatase acid được sử dụng để chẩn đoán ung thư tiền liệt di căn ở giai đoạn nặng và để theo dõi đáp ứng của Bệnh nhân đối với điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Trước đây phosphatase acid được coi như một chất chỉ điểm ung thư (tumor marker) đối với ung thư tuyến tiền liệt do hoạt độ enzym cao được thấy trong các tế bào ung thư và enzym này được giải phóng vào huyết thanh càng dễ dàng khi khối u tuyến tiền liệt có kích thước càng lớn. Tuy nhiên, với sự phát hiện vả áp dụng XÉT NGHIỆM tìm kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (prostate-speclfic antigen [PSA]), XÉT NGHIỆM phosphatase acid hiện tại ít được áp dụng hơn.

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

Để đánh giá mức độ lan rộng của một ung thư tuyến tiền liệt. Để dự kiến khả năng tái phát sau khi đã tiến hành cắt bỏ tiệt căn tuyến tiên liệt đối với các ung thư tuyến tiền liệt khu trú về phương diện lâm sàng và để theo dõi đáp ứng với điều trị kháng androgen, khi được sử dụng kết hợp với PSA.

Cách lấy bệnh phẩm

XÉT NGHIỆM được tiến hành trên huyết thanh. Tránh gây vỡ hồng cầu khi XÉT NGHIỆM.

Tiến hành lấy mẫu máu vào buổi sáng khi Bệnh nhân nhịn ăn, một số phòng XÉT NGHIỆM không yêu cầu Bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm.

XÉT NGHIỆM cần được thực hiện càng nhanh càng tốt sau khi lấy bệnh phẩm.

Giá trị bình thường

2,2 – 10, 5 U/L hay 35 – 175 nkat/L.

Tăng hoạt độ phosphatase acid

Các nguyên nhân chính thướng gặp là:

Ung thư tuyến tiền liệt. Bệnh Gaucher và bệnh Niemann-Pick. Trong thời gian từ 1-2 ngày sau phẫu thuật hoặc sinh thiết tuyến tiền liệt. Thâm khám nhiều lần hoặc đặt catheter tuyến tiền liệt. Tăng sinh tuyến tiền liệt lành tính. Suy thận cấp. Các di căn xương. Ung thư vú. Xơ gan. Sản giật. Thiếu máu tan máu. Viêm gan. Cường chức năng tuyến cận giáp (hyperparathyroidism), u gan. Đa u tủy xương. Vàng da tắc mật. Bệnh xương hóa đá (bệnh Paget). Lạm dụng tình dục (nhất là đối với trẻ vị thành niên).

Các yếu tố góp phần làm thay đối kết quả xét nghiệm

  • Mẫu bệnh phẩm bị vỡ hồng cầu có thể làm thay đổi kết quả XÉT NGHIỆM. Cần tránh tất cả các thao tác tác động đối với tuyến tiền liệt (Vd: thăm hậu môn hay soi bàng quang) trong vòng 2 ngày trước khi làm XÉT NGHIỆM.
  • Các thuốc có thể làm tăng hoạt độ phosphatase acid là: Các steroid làm tăng chuyển hóa, androgen, clofibrat.
  • Các thuốc có thê làm giảm hoạt độ phosphatase acid là: Rượu, fluo, oxalat, phosphat.

Lợi ích của xét nghiệm đo hoạt độ phosphatase acid

1. XÉT NGHIỆM hữu ích để theo dõi sự phát triền của ung thư tuyến tiền liệt: nồng độ phosphatase acid tương quan với mức độ phát triển của u và tình trạng di căn.

2. XÉT NGHIỆM được sử dụng như một yếu tổ đánh giá tiên lượng và đáp ứng với điều trị đối với ung thư tuyên tiền liệt.

Các hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên y học bằng chứng

Theo hướng dẫn cua Viện Hàn lảm Nhi khoa Mỹ (American Academy of Pediatrics) về đánh eiá lạm dụne tinh dục đối với trẻ vị thành niên, hoạt độ phosphatase acid cao ở trẻ vị thành niên được coi như một tiêu chuẩn nghi vấn có tình trạng lạm dụng tình đục đối với trẻ.

Các cảnh báo lâm sàng

Xét nghiệm này không hoàn toàn đặc hiệu đối với bệnh lý tuyến tiền liệt do tăng hoạt độ phosphatase acid có thế được gặp trong các bệnh lý xương gây tân tạo xương (ostéoplasie), một số bệnh lý huyết học và gan. Đo hoạt độ phosphatase acid là một XÉT NGHIỆM kém nhạy để chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt. Một hoạt độ bình thường không đủ tin cậy để loại trừ được tình trạng di căn của ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy, hiện tại xét nghiệm này không còn được sử dụng để sàng lọc hoặc để phân giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt. Trong hầu hết các trường hợp, đo hoạt độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) huyết thanh được sử dụng thay thế cho XÉT NGHIỆM này.

Scroll to Top