SẢN PHẨM THOÁI GIÁNG CỦA FIBRINOGEN VÀ FIBRIN

(Produits de Degradation du Fibrinogène et de la Fibrin [PDF] / Fibrinogen and Fibrin Degradation Products [FDPs], Fibrin Split Products [FSPs], Fibrin Breakdown Products [FBPs])

Nhắc lại sinh lý

Trong điều kiện bình thường, cầm máu là kết quả của tình trạng cân bằng liên tục giữa quá trình hình thành cục đông (tạo fibrin) và quá trình làm tan cục đông kể trên (tiêu fibrin).

Tất cả các kích thích gây hoạt hoá quá trình tạo fibrin đều dẫn tới hình thành cục đông và tất cả các kích thích quá trình tiêu fibrin sẽ dẫn tới phân giải cục đông đã được hình thành.

1. Tạo fibrin (fibrinoformation): Dưới tác động của thrombin, fibrinogen lưu hành trong cơ thể được chuyển thành fibrin monome, rồi thành fibrin polyme (cục đông fibrin ổn định) dưới tác động của yếu tố ổn định fibrin (fibrin stabilizing factor) hay yếu tố XIII

2. Tiêu fibrin (Fibrinolysis): Một khi cục đông fibrin không còn cần thiết đối với cơ thể nữa, dưới tác động của chất hoạt hoá tổ chức plasminogen (tPA), plasminogen lưu hành được chuyển thành plasmin là chất có chức năng tiêu huỷ fibrinogen và fibrin đã được hình thành và gây xuất hiện các sản phẩm thoái giáng của fibrinogen và của fibrin (PDF) bao gồm các mảnh sớm (X và Y) và các mảnh muộn (D và E) . Như vậy, sự hiện diện của sản phẩm thoái giáng của fibrinogen và fibrin trong máu chỉ dẫn có quá trình hình thành cục đông fibrin gần đây. Tình trạng tiêu fibrin phản ứng và thứ phát sau khi hình thành cục đông fibrin trong đông máu rải rác trong lòng mạch sẽ gây xuất hiện các sản phẩm thoái giáng của fibrin và fibrinogen (hay PDF). Tăng nồng độ PDF cũng xẩy ra trong một số trường hợp hiếm gặp như tiêu fibrin tiên phát và trong khi điều trị tiêu cục đông fibrin.

Như vậy, xác định được các PDF không cho phép phân biệt đó là sản phẩm thoái giáng của fibrinogen với những sản phẩm thoái giáng của fibrin. Thấy có các PDF trong huyết thanh trong các trường hợp sau:

1. Tiêu fibrin tiên phát (có các sản phẩm thoái giáng của fibrinogen).

2. Tiêu fibrin thứ phát do bệnh lý huyết khối (có các sản phẩm thoái giáng của fibrin).

Các PDF hoạt tính chống đông nội sinh tự nhiên. Đặc tính này cần được xét tới khi dùng chỉ định dùng heparin cho bệnh nhân do khi có nồng độ PDF cao (Vd: khi điều trị tiêu fibrin) có thể làm tăng thêm tác dụng của chất chống đông và dễ làm xuất hiện các biến chứng chảy máu.

Mặt khác khi điều trị chống đông (dùng heparin không phân đoạn hay heparin cóTrọng lượng phân tửthấp), định lượng định kỳ các PDF cho phép theo dõi tiến triển của bệnh huyết khối và giúp đánh giá hiệu quả của điều trị.

1. Thấy mất dần các PDF trong thời gian theo dõi có nghĩa là có thoái triển của quá trinh tạo fibrin.

2. Thấy tái xuất hiện các PDF trong thời gian theo dõi gợi ý bệnh huyết khối gây tắc mạch có thể lại tái phát.

Hiện tại, việc định lượng các PDF đã được sử dụng thường xuyên trong chẩn đoán các bệnh lý tắc mạch huyết khối: Giá trị cùa PDF tăng cao ở 70% các trường hợp viêm tắc tĩnh mạch và ở 75% trường hợp tắc mạch phổi và ờ 15% các bệnh nhân không có bệnh lý huyết khối.

Cần ghi nhận là từ vài năm nay, nhờ sử dụng kháng thể đơn dòng, người ta thể định lượng được các sản phẩm thoái giáng đặc hiệu của fibrin (D dimer). xét nghiệm này tỏ ra nhậy hơn và dặc hiệu hơn là so với định lượng PDF và rất hữu ích cả trong chần đoán các bệnh lý tắc mạch huyết khối cũng như để theo dõi trong quá trình điều trị.

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

Xét nghiệm cung cấp các thông tin về tình trạng hoạt động của hệ thống làm tan cục đông trong cơ thể vì vậy giúp cho chẩn đoán tình ừạng đông máu rải rác trong lòng mạch.

Cách lấy bệnh phẩm

Xét nghiệm được thực hiện trên huyết thanh. Ống nghiệm có chất chống đông citrat 3,8% (1 thể tích citrat cho 9 thể tích máu). Không nhất thiết cần yêu cầu bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm. Nếu bệnh nhân cần dùng heparin, cần tiến hành lấy máu trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc chống đông.

Giá trị bình thường

< 10 µg/mL hay < 100 mg L.

Tăng lượng PDF

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

  • Bệnh đông máu rái rác trong lòne mạch (CIVD).
  • Tắc mạch phôi.
  • Huyết khối tĩnh mạch sâu.
  • Xơ gan và các bệnh gan.
  • Tiêu fibrin tiên phát.
  • Điều trị tiêu fibrin.
  • Giai đoạn sau mổ.
  • Nhồi máu cơ tim.
  • Viêm khớp dạng thấp.
  • Làm cầu nối tắt (shunt) tĩnh mạch-phúc mạc (shunt péritonéo- veineux).
  • Rau (nhau) bong non (abruptio placentae).
  • Bệnh lơxêmi cấp.
  • Truyền máu tự thân (autologous transfusions).
  • Bỏng.
  • Bệnh tim bẩm sinh.
  • Say nóng.
  • Giảm oxy mô.
  • Thai chết lưu.
  • Bệnh lý ác tính.
  • Tiền sản giật.
  • Bệnh thận.
  • Nhiễm trùng huyết.
  • Shock.
  • Phản ứng truyền máu.
  • Tình trạng thải ghép.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

Mẫu bệnh phẩm bị vỡ hồng cầu có thể làm thay đỏi kết quả xét nghiệm. Khi có mặt yếu tố dạng thấp, kết quả có thể bị tăng cao già tạo. Các thuốc có thể làm tăng nồng độ PDF là: Barbiturat, heparin, streptokinase, urokinasse.

Lợi ích của định lượng PDF

1. Xét nghiệm có giá trị trong chấn đoán các tình trạng bệnh lý gây tăng tiêu fibrin: Một nồng độ PDF > 40 µg/mL rất gợi ý cho tình trạng đône máu rải rác trong lòng mạch (DIC). Huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi (đạt độ nhậy 75%, độ đặc hiệu 80%).

2. Xét nghiệm có giá trị để theo dõi tiến triển trong quá trình điều trị bệnh lý huyết khối theo thòi gian và để đánh giá hiệu quả của điều trị.

3. Xét nghiệm hữu ích trong theo dõi các cầu nối tắt (shunt) tĩnh mạch phúc mạc (khi giá trị của PDF trong máu trở lại bình thường gợi ý có huyết khối gây tắc shunt).

Các cảnh báo lâm sàng

Một kết quả xét nghiệm nồng độ các sản phẩm thoái aiáng của fibrinogen và fibrin tăng cao có thể là bằng chứng của tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch. Khi đó cần phân tích kết họp kết quả của các xét nghiệm khác giúp chấn đoán tình trạng này: số lượng tiểu cầu, định lượng nồng độ fibrinogen, phát hiện các phức chất hòa tan trong máu (Vd: nghiệm pháp ethanol), định lượng yếu tố V, xác định thời gian tiêu euglobullin (temps de lyse du caillot des euglobulines).

Scroll to Top