TEST CHẨN ĐOÁN NHIỄM CYTOMEGALOVIRUS

(Sérodiagnostic et Recherche de Cytomégalovirus / Cytomegalovirus ỊCMV])

Nhắc lại sinh lý

Cytomegalovirus (CMV) là một thành viên của gia đình virus herpes. Đây là một virus rất hay gặp. Người ta ước tính có từ 40 đến 100% dân số có thể bị nhiễm CMV tùy từng vùng địa lý. ở các nước Tây Âu, 40 – 50% đối tượng là người > 20 tuổi có kháng thể kháng virus tồn dư trong huyết thanh và tỷ lệ này đạt tới 90% vào tuổi 60. ở các nước đang phát triển gần như 100% các đối tượng là người > 20 tuổi phát hiện có kháng thể kháng CMV trong huyết thanh, tỷ lệ (+) cao này có liên quan với tình trạng vệ sinh và cuộc sống chung đụng.

Nhiễm trùng tiên phát (primo – infection) do CMV thường xẩy ra ở tuổi nhỏ và nói chung không gây ra bất kỳ triệu chứng gì ờ các cơ địa có chức năng miễn dịch bình thường. Một số nhỏ các trường hợp, nhiễm trùng tiên phát có thể gây ra các triệu chứng bệnh lý lành tính, xẩy ra sau thời gian ủ bệnh 2 – 6 tuần (sốt kéo dài, hạch to nhiều nơi, hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng…). Tuy nhiên, đối với các đối tượng bị suy giảm miễn dịch, nhiễm trùng do CMV có thể gây các tác động nặng (Vd: ở bệnh nhân bị AIDS, nhiễm trùng do CMV có thể gây tình trạng viêm phổi, viêm thực quản, viêm đại tràng, viêm não và viêm võng mạc dẫn tới mù), ở các bệnh nhân sau ghép tạng, nhiễm trùng do CMV được coi là một biến chứng chính và thường gây tử vong cho bệnh nhân sau ghép. Nhiễm trùng do CMV ờ phụ nữ trong khi mang thai có thể gây tình trạng chậm phát triển tâm thần và tật đầu nhỏ (microencephaly) của trẻ sơ sinh.

Nhiễm trùng do CMV sẽ gây ra sự xuất hiện các kháng thể đặc hiệu trong máu cùa bệnh nhân. Có thể phát hiện được các kháng thể này bằng kỹ thuật ELISA ngay từ khi bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng và diễn biến động học của các kháng thể này cho thấy có tình trạng tăng lên đặc trưng với sự xuất hiện hằng định của IgM.

Nếu sử dụng test để chần đoán nhiễm trùng cấp do CMV, nhất thiết phải tiến hành làm hai mẫu máu: Mầu máu lần đầu (còn được gọi là hiệu giá cấp acute titer) được thực hiện càng sớm càng tốt vào lúc bệnh khởi phát. Mầu máu thứ hal (còn được gọi là hiệu giá giai đoạn lui bệnh convalescent titer) được thực hiện sau đó 10 – 14 ngày. Hai mẫu bệnh phẩm huyết thanh phải được xét nghiệm đồng thời ờ cùng một phòng xét nghiệm.

Chẩn đoán nhiễm trùng do CMV được xác nhận khi có tăng hiệu giá > 4 lần giữa lần xét nghiệm lúc đầu so với lần xét nghiệm lúc lui bệnh.

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

Để khẳng định vai trò gây bệnh của cytomegalovirus (CMV) khi đang bị một hội chứng nhiễm trùng không rõ nguồn gốc.

Cách lấy bệnh phẩm

xét nghiệm được tiến hành trên huyết thanh.

Không nhất thiết cần yêu cầu bệnh nhãn phải nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm.

Giá trị bình thường

Âm tính hay hiệu giá <1:5 (1/5) : Không bị nhiễm CMV trong tiền sử.

Giá trị bất thường

(+) với kháng thể kháng CMV: Bị nhiễm CMV trong tiền sử.

Tăng hiệu giá kháng thể đối với CMV

Nguyên nhăn chính thường gặp là: Nhiễm trùng do CMV.

Giảm hiệu giá kháng thể đối với CMV

Dễ bị nhiễm trùng do CMV.

Các yếu tố góp phần làm thay đối kết quả xét nghiệm

Ket quả (+) giả xẩy ra ở các đối tượng có yếu tố dạng thấp trong máu (+) và ở các đối tượng có phơi nhiễm với virus Epstein Barr.

Lợi ích của test huyết thanh chẩn đoán nhiễm cytomegalovirus

1. xét nghiệm hữu ích trong 2 tình huống sau: Với mục đích chẩn đoán: Khi trên lâm sàng muốn tìm kiếm tình trạng chuyển đổi huyết thanh ở một đối tượng đang có kháng thể kháng CMV huyết thanh (-) nhằm để chứng minh có tình trạng nhiễm trùng tiên phát do CMV đôi khi trầm trọng. Với mục đích tiên lượne: Trong quá trình làm bilan ghép tạng và tìm người cho tạng ghép, truyền máu nhằm để dự kiến nguy cơ bị nhiễm trùng tiên phát do CMV đối với người nhận có tình trạng suy giảm miễn dịch.

2. Trong tiến triển của bệnh nhân’ bị AIDS, test huyết thanh chẩn đoán nhiễm CMV khi được kết hợp với xét nghiệm phát hiện virus bằng cách nuôi cấy từ các bạch cầu lưu hành có lợi ích trong chẩn đoán tình trạng tái hoạt động cùa virus trong cơ thê và nhất là giúp để đánh giá hiệu quả của thuốc điều trị kháng CMV (ganciclovir, íbscamet…).

Các cảnh báo lâm sàng

Cytomegalovirus (CMV) được tìm thấy trong tất cà các chất tiết của cơ thể. Vì vậy, cần cảnh báo cho các nhân viên y tế đang trong thời gian mang thai về các nguy cơ tiềm ẩn nếu bị nhiễm trùng mắc phải do CMV. Do hầu như không thể loại bỏ hoàn toàn được nguy cơ phơi nhiễm với virus đối với nhân viên y tế từ các bệnh nhân là người mang virus, điều cơ bản nhất là khuyển cáo nhân viên y tế phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình rửa tay và áp dụng triệt để các biện pháp dự phòng phơi nhiễm trong quá trình chăm sóc bệnh nhân.

Các bệnh nhân có tình trạng ức chế miễn dịch càn được truyền máu hay ghép tạng, nếu là đối tượng được biết là chưa có kháng thể đối với CMV, phải được truyền máu hay nhận tạng ghép từ những người cho phải có huyết thanh ăm tính với CMV.

Scroll to Top