(Mononucléose Infectieuse Test et Paul / Bunnell – Davidsohn [PBD] – Epstein – Barr Virus; Mononucleosis Test, EBV Antibody Test, Heterophile Antibody Titer [HAT], Monospot Test)
Nhắc lại sinh lý
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng (Infectious mononucleosis) do một loại herpes virus (Epstein – Barr virus) gây nên. Bệnh được đặc trưng bằng tình trạng mệt mỏi, đau họng, sốt, viêm thanh quản, hạch to, lách to và tăng bạch cầu lympho. Đây là một tình trạng tự khỏi, với điều trị triệu chứng là chủ yếu.
Ngoài gây tăng sản xuất các tế bào lympho và bạch cầu đơn nhân tại các hạch bạch huyết, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng cũng kích thích sản xuất các kháng thể có tính chất phản ứng chéo với nhiều loại kháng nguyên (heterophile antibodies). Kháng thể typ IgM này bình thường không được thấy ở người gây tình trạng ngưng kết đối với cả hồng cầu cừu và hồng cầu cùa ngựa hay bò. Kháng thể này thường được hình thành trong vòng 4 đến 7 ngày kể từ khi bắt đầu bị bệnh. Nồng độ kháng thể đạt mức đỉnh vào I tuần 2 – 5 và nó có thể tồn tại kéo dài trong vòng vài tháng tới hàng năm.
Hai phản ứng có thể được thực hiện để chẩn đoán tình trạng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng:
Test ngưng kết (agglutination) trên lam kính hay MNI test hay monospot test: xét nghiệm định tính. Test Paul-Bunnell-Davidsohn hay test đặc hiệu đối với virus Epstein- Barr (EBV-specific testing): xét nghiệm định lượng.
Mục đích và chỉ định xét nghiệm
xét nghiệm được chỉ định để chẩn đoán tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng.
Cách lấy bệnh phẩm
xét nghiệm được tiến hành trên huyết thanh.
Không nhất thiết cần yêu cầu bệnh nhăn phải nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm.
Giá trị bình thường
Test chẩn đoán tăng bạch cầu đon nhân nhiễm trùng (MNI test): Ket quà bình thường âm tính. Test Paul – Bunell – Davidsohn (PBD) hay test đặc hiệu đối với virus Epstein – Barr (EBV – specific testing): Huyết thanh bình thường chứa một hàm lượng thấp (< 1/80) agglutinin kháng hồng cẩu cừu. Chẩn đoán tình trạng tăng bạch cầu đon nhân nhiễm trùng được khẳng định khi hiệu giá của kháng thể này trong khoảng 1/160 – 1/2.000. Các kháng thể được thấy với hiệu giá tăng cao trong vòng 6 tuần.
Hiệu giá kháng thể heterophile dương tính
u lympho Burkitt (Burkin’s lymphoma). Hội chứng mệt mỏi mạn hay tình trạng đau xơ cơ (fibromyalgia). Nhiễm cytomegalovirus. Nhiễm Epstein – Barr virus. Bệnh u lympho Hodgkin. Tăng bạch cầu đơn nhản nhiễm trùng. Bệnh lơxêmi dòng lympho (lymphocytic leukemia). Sốt rét. Ung thư vùng mùi hâu (nasopharyngeal cancer). Ung thư tụy. Viêm khớp dạng thấp. Bệnh Rubella. Bệnh sarcoidose. Bệnh lupus ban đó hệ thống. Viêm gan siêu vi trùng.
Các yếu tố góp phần làm thay đối kết quả xét nghiệm
Mầu bệnh phàm bị vỡ hồng cầu có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm. Các trường hợp (+) và (-) giả:
■ Đối với test định tính hay test nhanh: 2 – 5% (+) giả.
■ PBD: Mội vài trường hợp hiếm gặp (-) giả ở một số đối tượng thuộc nhóm máu A, song không gặp trường họp (+) giả.
■ Đối với cả hai loại test: Có thể gặp trường hợp (-) giả khi tiến hành xét nghiệm quá sớm (trước 7 ngày kể từ khi nhiễm virus).
Lợi ích của test huyết thanh chấn đoán nhiễm EBV
xét nghiệm hữu ích trong chẩn đoán các trường hợp nghi ngờ bị nhiễm Epstein- Barr virus:
1. Một hiệu giá kháng thể heterophile (+) giúp chẩn đoán tình trạng tăng bạch cầu đon nhân nhiễm trùng do test (+) ở 90% các trường hợp nhiễm trùng do EBV. Điển hình ra, test định tính nhanh tìm kháng thể heterophile (+) (MNI test hay monospot test) kết hợp với bệnh cành lâm sàng điển hình là đù để chẩn đoán tình trạng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng.
2. Nếu test nhanh (test định tính) (—) ớ bệnh nhân có bệnh cành hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân với nghi vấn do nhiềm Epstein-Barr virus, có thể tiến hành làm lại test sau 1 tuần để xem kháng thể heterophile có xuất hiện hay không, và/hoặc chi định xét nghiệm tìm kháng thể kháng Epstein-Barr (hay kháng thể kháng cytomegalovirus) đặc hiệu để giúp khẳng định hay loại trừ tình trạng nhiễm trùng do Epstein-Baư virus gần đây.
3. Trong trường hợp test nhanh tìm kháng thể heterophile (-) và bệnh cảnh lâm sàng không điển hình, có thể khẳng định sự hiện diện của Epstein-Barr virus bằng test đặc hiệu đối với Epstein-Barr virus. Chấn đoán tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng có thể được xác nhận khi kháng thể IgM và IgG có nồng độ cao. Kháng thể IgM thường mất đi trong vòng 3 -6 tuần sau khi bắt đầu bị bệnh. Các nhiễm Epstein-Barr virus trước đây được phát hiện bằng kháng thể IgG, do kháng thể này thường tăng lên sau khi nhiễm virus từ 3 tuần đến vài tháng kể từ khi có triệu chứng.