HEMOGLOBIN BỊ GLYCOSYL HÓA HAY GẮN ĐƯỜNG

(Hémoglobine glycosylée / Glycosylated Hemoglobin G-Hb, Glycated Hgb)

Nhắc lại sinh lý

Glucose kết hợp với hemoglobin một cách liên tục và gần như không hồi phục trong suốt đời sống của hồng cầu (120 ngày )

Khi nồng độ glucose máu tảng cao hơn mức bình thường trong một khoảng thời gian đủ dài, glucose sẽ phản ứng với các protein mà không cần sự xúc tác của enzym (phản ứng glycosyl hóa protein hay còn gọi là phản ứng Amadori) tạo thành các sản phẩm Amadon IHình 1). Khi phản ứng xẩy ra trong hồng cầu, glucose kết hợp VỚI hemoglobin tạo thành hemoglobin bị glycosyl hóa. Như vậy, hemoglobin b| glycosyl hóa (hémoglobine glycosylée) chính là hemoglobin của các hồng cầu bị bão hòa với glucose dưới dạng glyco-hemoglobin (Hình 1). Tình trạng bão hòa này được thể hiện trong suốt 120 ngày của đời sống hồng cầu. Nông độ hemoglobin bị glycosyl hóa sẽ tương quan thuận với nồng độ glucose huyết tương trung bình trong vòng 6- 12 tuần trước đó. Vì vậy, bằng cách định lượng nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa (glycosylated hemoglobin), người thầy thuốc có thể nhận định được nồng độ glucose máu trung binh trong vòng 2 – 3 tháng trước đó của BỆNH NHÂN. Điều này cung cấp các thông tin quý giá để theo dõi các Bệnh nhân bị đái tháo đường là đối tượng có nồng độ glucose máu thay đổi quá nhiều giữa các ngày và giúp theo dõi mức độ kiểm soát lâu dài bệnh ĐTĐ.

Khi nhận định kết quả XÉT NGHIỆM nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa, điều quan trọng cần biết là định lượng được thành phần nào của hemoglobin bị glycosyl hóa. Một số phòng XÉT NGHIỆM báo cáo hemoglobin bị glycosyl hóa bao gồm tổng các hemoglobin (tức là gồm cả hemoglobin A,a, A.|b và Aie), một số phòng XÉT NGHIỆM khác chỉ ghi nhận nồng độ HbA,c như là thành phần hemoglobin được glycosyl hóa (giá trị này có thể thấp hơn 2 – 4% so với giá trị được báo cáo đối với tổng các hemoglobin được bão hòa glucose). HbA1c là một phân nhóm của HbA,c, valin có chuỗi N tận (N-terminal Val) của phân tử hemoglobin này sẽ phản ứng với glucose thông qua phản ứng glycosyl hóa không cần enzym xúc tác và không thuận nghịch để tạo nên sản phẩm amadori gọi là HbA1c bị glycosyl hóa (hay HbA1c).

Nhận định kết quả nồng độ HbA1c không thực sự trực quan đối với nhiều Bệnh nhân bị đái tháo đường có thói quen đánh giá kết quả bằng nồng độ glucose máu. Hiệp hội Đái tháo Đường Hoa Kỳ (ADA) đã yêu cầu các phòng xét nghiệm biểu thị kết quả HbA-ic thành nồng độ glucose máu trung bình được ước tính. ADA cho rằng kết quả nồng độ glucose máu trung bình được ước tính sẽ giúp Bệnh nhân dễ hiểu hơn và sẽ khiến cải thiện xử trí đái tháo đường.

Mối tương quan giữa nồng độ HbA1c và nồng độ glucose huyết tương được thể hiện bằng tăng thêm 1% giá trị nồng độ HbA1c tương ứng với nồng độ glucose huyết tương trung bình tăng thêm 1,7 mmol/L (30 mg/dL). vậy:

  • 4% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 65 mg/dL
  • 5% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 100 mg/dL
  • 6% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 135 mg/dL
  • 7% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 170 mg/dL
  • 8% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 205 mg/dL
  • 9% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 240 mg/dL
  • 10% HbA,c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 275 mg/dL
  • 11% HbA1c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 310 mg/dL
  • 12% HbA,c = nồng độ glucose huyết tương trung bình là 345 mg/dL

Công thức được khuyến cáo để tính toán nồng độ glucose máu trung bình ước tinh (estimated average glucose [eAG]) là:

eAG (mg/dL) = 28,7 x hemoglobin A1c – 46,7

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

Để theo dõi sự tuân thủ điều trị và mức độ kiểm soát nồng độ glucose huyết dài hạn ở Bệnh nhân bị ĐTĐ. Chỉ số đánh giá hiệu quả điều trị hay kiểm soát đường huyết (có mỗi tương quan trực tiếp giữa kiểm soát kém nồng độ đường huyết và xuất hiện các biến chứng). Để dự kiến sự xuất hiện và tiến triển của các biến chứng vi mạch do ĐTĐ. Có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh ĐTĐ. Lợi ích vẫn còn đang được xác định.

Cách lấy bệnh phẩm

XÉT NGHIỆM được thực hiện trên huyết thanh. Không nhất thiết yêu cầu Bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu làm XÉT NGHIỆM.

Giá trị bình thường

  • Giá trị bình thường có thể thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm. Kết quả được ưa lời bằng % nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa so với nồng độ hemoglobin toàn phần:
    • HbAi toàn phần bị glycosyl hóa: 6 – 10%.
    • HbAla bị glycosyl hóa: 0,3 – 0,5%.
    • HbAu, bị glycosyl hóa: 0,5 – 0,9%.
  • HbAlc bị glycosyl hóa (Theo khuyến cáo của ADA 2010):
    • Người lớn không bị ĐTĐ: <5,6% (2,2 – 5%).
    • Tăng nguy cơ bị ĐTĐ: 5,7-6,4%.
    • Người lớn bị ĐTĐ: > 6,5%.

Tăng nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

  • Hb bào thai (Fêtai Hb) trên mức bình thường hoặc 0,5% (tình trạng có HbF kéo dài ở trẻ đồng hợp tử và dị hợp tử).
  • Nghiện rượu.
  • Tăng nồng độ glucose máu.
  • Ngộ độc chì và opi.
  • Bệnh đái tháo đường mới được chẩn đoán.
  • Bệnh đái tháo đường được kiểm soát kém.
  • Suy thận mạn được lọc máu hay không không được lọc máu.
  • Thiếu máu thiếu sất.
  • Tăng nồng độ triglycerid máu.
  • Điều trị bằng salicylat.

Giảm nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa

Các nguyên nhân chỉnh thường gặp là:

  • Mất máu mạn tính.
  • Suy thận mạn.
  • Thời gian sống của hồng cầu bị rút ngắn (Vd: Thiếu máu tan máu, hồng cầu hình cầu [spherocytes]).
  • Có thai.
  • Thiếu máu hồng cầu hình liềm (sickle cell anémia).
  • Sau cắt lách.
  • Thiếu máu vùng biến hay bệnh thalassemia.
  • Sau dùng liều lớn vitamin c hoặc vitamin E (> 1 g/ngày).
  • Sau truyền máu.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

  • Giảm thời gian sống trung bình của hồng cầu có thể là nguyên nhân gây ước tính thấp hơn giá trị thực nồng độ hemoglobin bị glycosyl hóa (Vd: khi Bệnh nhân bị thiêu máu tan máu, nhiễm thiết huyết tố được điều trị bằng chích máu).
  • Có các hemoglobin bất thường cũng có thể là nguyên nhân gây sai lạc kết quả.
  • Nồng độ hemoglobm bị glycosyl hóa rất thường bị ước tính cao hơn giá trị thực khi có tình trạng suy thận.

Lợi ích của xét nghiệm định lượng hemoglobin A1C

XÉT NGHIỆM không thể thiếu trong quy trinh theo dõi và chăm sóc lâu dài các Bệnh nhân ĐTĐ, nhất là các Bệnh nhân đái tháo đường không ổn định.

1. XÉT NGHIỆM này không bị ảnh hưởng bơi thời gian lấy máu XÉT NGHIỆM, loại thức ăn mà bệnh nhân ăn. tình trạng găng sức, stress và bệnh nhân có dùng hay không dùng thuốc điều trị bệnh đái tháo đường trước đó.

2. XÉT NGHIỆM giúp theo dõi mức độ kiểm soát lâu dài bệnh ĐTĐ: Bằng cách định lượng nồng độ hemogỉobin bị glycosyl hóa (HbAic), người thầy thuốc có thể nhận định được nồng độ glucose máu trung bình trong vòng 2 -3 tháng trước đó của BỆNH NHÂN. Điều này cung cấp các thông tin quý giá để theo dõi các Bệnh nhân bị đái tháo đường có nồng độ glucose máu thay đổi quá nhiều giữa các ngày. XÉT NGHIỆM nồng độ glucose máu lúc đói là một thông số không ổn định do nó có thể bị thay đổi tùy theo mức độ tuân thủ với phác đồ điều trị gần đây của BỆNH NHÂN, định lượng nồng độ HbAlc được coi như một chì số cộng gộp các giá trị nồng độ glucose máu trong vòng vài tháng trở lại đây của BỆNH NHÂN.

3. XÉT NGHIỆM định lượng nồng độ HbAX nên được làm với tần suất:

  • ít nhất 2 lần/năm ở các Bệnh nhân là đối tượng đáp ứng được đích điều trị và kiểm soát ổn định nồng độ glucose máu.
  • Mỗi 3 tháng/lần ở các Bệnh nhân là đối tượng có thay đổi trong phác đồ điều trị và/hoặc không đáp ứng được đích điều trị.
  • Khi cần để hỗ trợ cho quyết định thay đổi phác đồ điều trị cho BỆNH NHÂN.

4. Một số nhận định khi phân tích kết quá nồng độ HbAiC:

  • Hạ thấp nồng độ HbAlc xuống < 7% đã được chứng minh là giúp làm giảm các biến chứng vi mạch và thần kinh của bệnh nhân đái tháo đường

Theo Hội Đái tháo đường Mỹ (ADA), đích chung đối với các Bệnh nhân bị đái tháo đường là duy trì được một nồng độ HbAlc < 7%. Đích mong muốn đối với các đối tượng chuyên biệt là duy trì được nồng độ HbAlc càng gần với giá trị bình thường càng tốt (< 6%) mà không gây hạ glucose máu đáng kẻ cho BỆNH NHÂN. Tuy vậy, đích điều trị này có thể không thích hợp đối với Bệnh nhân có tiền sử bị hạ đường huyết nặng, Bệnh nhân có thời gian sòng sót dự kiến ngắn, trẻ quá nhỏ tuổi hay người già và các đối tượng có các bệnh lý nặng phối hợp.

Các cảnh báo lâm sàng

Đích kiểm soát nồng độ glucose máu cần đạt thay đổi tùy theo đối tượng BỆNH NHÂN. Các đích kiểm soát nồng độ glucose máu càng nghiêm ngặt (Vd: duy trì nồng độ HbAic < 6%) sẽ giúp làm giảm các biến chứng của bệnh ĐTĐ, song lại làm tăng nguy cơ bị hạ glucose máu. Trẻ em, phụ nữ có thai, người già và các đối tượng có tiền sử bị hạ glucose máu nặng và thường hay xẩy ra cần được cân nhắc cẩn thận đích kiểm soát nồng độ glucose máu cần đạt. Nếu không thể đạt được các đích điều trị mặc dù đã đạt được đích kiếm soát nồng độ glucose máu trước bữa ăn, có thể cần chú ý hơn nữa tới đánh giá nồng độ glucose máu sau bữa ăn. Các Bệnh nhân đái tháo đường cần được hướng dẫn cách theo dõi nồng độ glucose máu tại nhà, ghi lại các kết quá theo dõi và báo cáo lại cho bác sỹ điều trị trong các lần khám định kỳ.

Scroll to Top