KHÁNG NGUYÊN UNG THƯ BIỂU MÔ PHÔI

(Antigène Carcinoembryonnaire [ACE] / Carcinoembryonic Antigen [CEA])

Nhắc lại sinh lý

Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) là một nhóm các glycoprotein không đồng nhất có TRỌNG LƯỢNG PHÂN TỬ 200.000 dalton, di chuyển cùng với các bêta globulin khi làm điện di máu. Ở người lớn, CEA bình thường được thấy với hàm lượng vết trong máu. Tuy vậy, CEA có xu hướng tăng cao khi bị các bệnh lý ác tính.

Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) được sản xuất bởi:

1. Mô biểu mô phôi và thai:.Nồng độ chất này tăng lên trong thời gian có thai với đỉnh cao vào tuần thai thứ 22, rồi giảm dần để đạt tới giá trị bình thường vào tuần thai thứ 40.

2. Các TẾ BÀO ruột (biểu mô tuyến, nhất là ờ niêm mạc đường tiêu hóa):

Với một lượng nhỏ. CEA được các TẾ BÀO Kuptíer của gan thanh thải.

3. Các TẾ BÀO ung thư: Các bệnh lý khối u thường gây tăng nồng độ CEA là:

  • Ung thư đại tràng – trực tràng (50% có giá tri CEA > 10)
  • Ung thư vú (30% có giá trị CEA > 10).
  • Ung thư phổi (29% có giá trị CEA > 10).

Đối với các khối u kể trên, dường như có mối tương quan giữa:

  • 1. Nồng độ CEA và mức độ lan rộng của bệnh lý khối u nguyên nhân:
    • 10% các ung thư đại tràng thuộc phân độ Dukes A có nồng độ CEA tăng, so với 90% đối với các ung thư thuộc độ Dukes D.
    • Phẫu thuật cắt bỏ khối u tiên phát giúp làm giảm hoặc thậm chí đưa nồng độ CEA trở lại giá trị bình thường (trong vòng 4 – 6 tuần sau khi mổ).
  • 2. Nồng độ CEA và tiên lượng: ở cùng một giai đoạn của bệnh, các khối u có nồng độ CEA bình thường dường như có tiên lượng tốt hơn so với các khối u có nồng độ CEA tăng.

CEA là một chất chỉ dẫn (marker) kém đặc hiệu do có nhiều bệnh lý không phải là bệnh lý khối u cũng có thể gảy tăng CEA, vì vậy không nên sử dụng đơn độc XÉT NGHIỆM này để chẩn đoán ung thư Tuy vậy, khi giá trị của CEA càng tăng cao, nguy cơ phát hiện được một bệnh lý khối u càng hiển nhiên (khi giá trị CEA >15 ng/mL. khả năng bị bệnh lành tính rất thấp và khi nồng độ CEA > 25 ng/mL khả năng bệnh lành tính gần như được loại bỏ).

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

XÉT NGHIỆM giúp chẩn đoán và tiên lượng một số loại ung thư, nhất là ung thư đại tràng. XÉT NGHIỆM giúp theo dõi các ung thư đại trực tràng và một số loại ung thư chọn lọc khác (Vd: ung thư biểu mô giáp vùng tủy). Để chuẩn đoán tràn dịch màng phổi do căn nguyên ung thư.

Cách lấy bệnh phẩm

XÉT NGHIỆM được thực hiện trên huyết thanh (Kỹ thuật miền dịch phóng xạ [RIA])

Không nhất thiết cần yêu cầu bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu XN.

Giá trị bình thường

1. Người không hút thuốc: < 3 ng/mL hay <3 µg/l.

2. Người hút thuốc: < 5 ng/mL hay < 5 µg/l.

Tăng nồng độ CEA

Các nguyên nhân chính được gặp là:

1. Các bệnh lý ung thư (theo trình tự tần xuất gặp giảm dần):

  • Đại tràng, trực tràng.
  • Vú.
  • Phổi. Tụy.
  • Dạ dày.
  • Bệnh lơxêmi.
  • Các bệnh lý khối u khác (Vd: buồng trứng, tử cung, tuyến giáp).

Giữa các bệnh lành tính và ác tính, có sự chồng chéo rộng trong giá trị của CEA. Tăng nồng độ CEA là một dấu hiệu gợi ý song không đủ để xác nhận chẩn đoán ung thư.

  • 75% các bệnh nhân bị carcinoma nguồn gốc từ nội bì (Vd: đại tràng, dạ dày, tụy, phổi) có hiệu giá CEA > 2.5 ng/mL, và 2/3 số này có hiệu giá > 5 ng/mL. Nồng độ CEA cũng tăng lên ở khoảng 1/3 các bệnh nhân bị carcinoma phổi tế bào nhỏ và ờ khoảng 2/3 các carcinoma phổi không phải là tế bào nhỏ.
  • 50% các bệnh nhân bị carcinoma nguồn gốc khône phái từ nội bì (nonendoder mal origin) (đặc biệt là ung thư vú, vùng đầu mặt cổ, buồng trứng) có hiệu giá CEA >2,5 ng/mL và 50% có hiệu giá > 5 ng/mL. Hiệu giá CEA tăng lên ở > 50% các trường gợp ung thư vú có di căn và 25% không có di căn.
  • 40% các bệnh nhân bị bệnh lý ác tính không phải carcinoma có tăng nồng độ CEA, thường trong khoảng 2,5 – 5,0 ng/mL.
  • Nồng độ CEA cũng tăng lên ở 90% các bệnh nhân có khối u mô đặc, nhất là khi có di căn tới gan hoặc phổi, song nồng độ CEA được thấy gia tăng chi ở 50% các bệnh nhân có tình trạng bệnh tại chỗ hoặc chỉ có di căn trong ổ bụng.

2. Nồng độ CEA có thể tăng trong các tràn dịch màng phôi do các căn nguyên ung thư.

3. Các bệnh lý viêm tiến triển không do căn nguyên ác tính (nhất là các bệnh lý đường tiêu hóa) và hoạt độ CEA sẽ giảm xuống khi tình trạng bệnh lý nguyên nhân thuyên giảm:

  • Bệnh Crohn.
  • Viêm loét đại tràng (18% các Bệnh nhân có tăng nồng độ CEA).
  • Viêm túi thừa (diverticulitis).
  • Bệnh loét dạ dày
  • tá tràng.
  • Viêm tụy cấp và mạn.

4. Bệnh gan:

  • Do rượu.
  • Xơ gan.
  • Viêm gan mạn đợt tiến triển.
  • Viêm túi mật.

5. Các nguyên nhân khác:

  • Hút thuốc lá. Viêm phổi do vi khuẩn.
  • Viêm phế quản mạn tính, khí thũng phôi, bệnh phổi tắc nghèn mạn tính (COPD).
  • Có thai.
  • Viêm khớp dạng thấp.
  • Các bệnh viêm của thận gây suy thận cấp.
  • Suy giáp.
  • Sau xạ trị.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

  • Hút thuốc có thể làm tăng nồng độ CEA.
  • Các thuốc có thể làm tăng nồng độ CEA là: Thuốc điều trị ung thư, thuốc gây độc cho gan.

Lợi ích của xét nghiệm định lượng CEA

1. Do có tính đặc hiệu thấp, định lượng CEA với mục đích phát hiện các ung thư một cách hệ thống ít có giá trị. Tuy vậy, trong trường hợp lâm sàng nghi vấn Bệnh nhân có bệnh lý khối u (ung thư), XÉT NGHIỆM thấy tăng nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi là một dữ liệu bổ sung thêm cho việc phai tiếp tục làm các thăm dò tìm khối u nguyên phát.

2. XÉT NGHIỆM này đã được cho thấy là có hiệu quả trong phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng (nồng độ CEA tăng cao một vài tháng trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng). Các khối u nhỏ ở giai đoạn sớm sẽ có nồng độ CEA bình thường hay thấp, trái lại khi bệnh ở giai đoạn nặng hay có di căn thường thấy có tăng nồng độ CEA.

3. Trong trường hợp khối u đã được xác định, định lượng CEA cho phép theo dõi tiến triến của bệnh lý khối u và đáp ứng vói điều trị.

  • Sau khi cắt bo hoàn toàn ung thư đại tràng, nồng độ CEA phải giảm dần tới giá trị bình thường trong vòng 6-12 tuần.
  • Không thấy giam nồng độ CEA về giá trị bình thường sau mổ gợi ý không cắt bỏ được hoàn toàn khối u.
  • Tất cả các gia tăng nồng độ CEA sau điều trị phẫu thuật cắt bỏ u cần phái tiến hành tìm kiếm tình trạng u tái phát tại chỗ hay đã di căn ở xa.

4. Tiên lượng tình trạng bệnh có liên quan với nồng độ CEA vào thời điểm chẩn đoán: giai đoạn bệnh và xác suất tái phát.

  • Nồng độ CEA < 5 ng/mL trước điều trị gợi ý tình trạng bệnh khu trú và có một tiên lượng tốt, trái lại nồng độ CEA > 10 ng/mL gợi ý bệnh lan rộng và tiên lượng tồi.
  • > 80% số bệnh nhân bị carcinoma đại tràng có nồng độ CEA > 20 ng/mL sẽ bị tái phát trong vòng 14 tháng sau mổ.
  • Nồng độ CEA máu > 20 ng/mL có tương quan với thể tích u trong ung thư vú và đại tràng và thường được kết hợp với tình trạng bệnh di căn hoặc với một số loại ung thư (Vd: ung thư đại tràng hoặc tụy); tuy nhiên, di căn có thể xẩy ra ở bệnh nhân có nồng độ CEA < 20 ng/mL.
  • 5. Trước tất ca các tăng giá trị cua CEA. sau khi đã được khẳng định bàng cách làm lại xét nghiệm đòi hỏi phải làm thêm XÉT NGHIỆM bổ sung (nhất là các thăm dò chẩn đoán hình thành học), nhất là khi giá trị này > 15 ng/mL.

Các hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên y học bằng chứng

Hiệp hội lâm sàng Ung thư Hoa Kỳ (The American Society of Clinical Oncology) khuyến cáo theo dõi nồng độ CEA trước và mỗi 2-3 tháng/lần trong vòng 2 năm đầu sau phẫu thuật cắt bỏ ung thư đại trực tràng cho các bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn II và III:

  • Tình trạng giảm trở về giá trị bình thường sau phẫu thuật ở một bệnh nhân có tăng nồng độ CEA trước mổ mang ý nghĩa là khối u đã được cắt bỏ hoàn toàn, trái lại nồng độ CEA vẫn tiếp tục tăng cao sau phẫu thuật chi dẫn vẫn còn ung thư tồn dư.
  • Tăng nồng độ CEA trước mổ là một yếu tố dự đoán độc lập cho một tiên lượng xấu đối với BỆNH NHÂN.
  • Một nồng độ CEA < 2,5 ng/mL không cho phép loại trừ ung thư tiên phát, di căn hoặc tái phát.

Các cảnh báo lâm sàng

  • Khi ung thư di căn tới các cơ quan khác trong cơ thể, nồng độ CEA tăng lên và có thể thấy tăng nồng độ CEA cả trong các dịch khác của cơ thể như trong dịch não tủy.
  • Cần sử dụng cùng một phương pháp xét nghiệm để theo dõi nồng độ CEA đối với một bệnh nhân cụ thể và một thay đổi trong nông độ CEA huyết tương được coi là có ý nghĩa khi > -25-35 D so với giá trị nền.
  • Có thể gặp các dạng thay đổi nồng độ CEA trong khi tiến hành điều trị hóa chất chống ung thư cho bệnh nhân:
    • Nồng độ CEA tiếp tục tăng lên liên tục chỉ dẫn không có đáp ứng với điều trị.
    • Nồng độ CEA giảm đi chỉ dẫn có đáp ứng với điều trị.
    • Tăng lên trong vài tuần sau đó giảm xuống chỉ dẫn có đáp ứng với điều trị.
    • Giảm bền bỉ và tức khắc sau đó nồng độ này lại tăng lên chỉ dẫn không có đáp ứng với điều trị
Scroll to Top