KHÁNG THỂ KHÁNG THYROPEROXIDASE

(Thyroid Autoantibody Test, TPO-Antibodies, Anti-TPO, Antimicrosomal Antibody Test, Thyroid Antimicrosomal Antibody)

Nhắc lại sinh lý

Thyroperoxidase (TPO) là một enzym tham gia vào quá trình tổng hợp hormon giáp trạng. Enzym này xúc tác phản ứng oxi hóa của iodin trên các tyrosine tồn dư trong thyroglobulin để tổng hợp triiodothyronine (T3) và thyroxine (T4). TPO là một hemoglycoprotein kết hợp với màng tế bào và chỉ được bộc lộ tại các tế bào giáp và đây là một trong các kháng nguyên tuyến giáp quan trọng nhất.

Các rối loạn tuyến giáp thường là hậu quả của các cơ chế tự miễn dịch gây tình trạng sản xuất các tự kháng thể kháng lại tuyến giáp. Kháng thể kháng-TPO hoạt hóa bổ thể và được quy là tham gia có ý nghĩa vào tình trạng rối loạn chức năng giáp và là một yếu tố sinh bệnh học của suy giáp.

Kháng thể kháng TPO được hình thành khi các kháng nguyên thường được che giấu trong điều kiện bình thường trở nên được bộc lộ hoặc bị rò rỉ vào tuần hoàn khi xẩy ra quá trình viêm gây phá hủy tổ chức giáp. Tình trạng này thường gặp trong bệnh cảnh viêm tuyến giáp Hashimoto. viêm tuyến giáp sau để hoặc bệnh Grave-Basedow, song đôi khi có thể xẩy ra trong viêm tuyến giáp bán cấp, viêm tuyến giáp do vi khuẩn hoặc sau chảy máu tuyến giáp.

Trước đây, các kháng thể này được coi như kháng thể kháng microsome (antimicrosomal antibodies) do chúng gắn với các microsome của tế bào biểu mô tuyến giáp.

Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh peroxidase của tế bào tuyến giáp là thành phần có tính kháng nguyên tiên phát của các microsome. Vì vậy, định lượng kháng thể TPO về cơ bản đã thay thế cho XÉT NGHIỆM định lượng kháng thể kháng mlcrosome.

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

XÉT NGHIỆM được sử dụng như một test trợ giúp để:

  • Đánh giá tình trạng sản xuất tự kháng thể giáp ở các bệnh nhân bị bệnh lý tuyến giáp vì vậy được sư dụng để chẩn đoán các rối loạn tự miễn của tuyến giáp.
  • Để phân biệt tình trạng viêm tuyến giáp bán cấp với viêm tuyến giáp Hashimoto.
  • Để chẩn đoán phân biệt giữa các rối loạn tự miễn của tuyến giáp với bệnh lý bướu giáp không liên quan với cơ chế tự miễn hoặc suy giáp.
  • Được coi như một phương tiện giúp quyết định cần điều trị cho bệnh nhân bị suy giáp không có biểu hiện lâm sàng hay không.

Cách lấy bệnh phẩm

XÉT NGHIỆM được tiến hành trên huyết thanh.

Không nhất thiết cần yêu cầu BN phải nhịn ăn trước khi lấy máu XÉT NGHIỆM.

Giá trị bình thường

  • Hiệu giá kháng thể TPO: < 9 IU/mL.
  • Hiệu giá kháng thể kháng microsome: < 1:100.

Tăng hiệu giá tự kháng thể giáp

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

  • Thiếu máu tan máu tự miễn.
  • Viêm tuyến giáp tạo u hạt (granulomatous thyroiditis).
  • Viêm tuyến giáp Hashimoto.
  • Viêm tuyến giáp tế bào lympho ở tuổi thiếu niên.
  • Chứng nhược cơ toàn thể.
  • Phù niêm.
  • Bướu nhân không độc giáp (nontoxic nodular goiter).
  • Thiếu máu ác tính.
  • Suy giáp tiên phát.
  • Viêm khớp dạng thấp.
  • Hội chứng Sjogren.
  • Lupus ban đỏ hệ thống.
  • Ung thư giáp.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

Các thuốc có thể làm tăng nồng độ kháng thể kháng TPO là: thuốc viên ngừa thai.

Lợi ích của xét nghiệm định lượng kháng thể kháng TPO

  • XÉT NGHIỆM xác định nồng độ kháng thể kháng TPO là test nhạy nhất để phát hiện các bệnh lý tuyến giáp tự miễn (Vd: viêm tuyến giáp Hashimoto, phù niêm vô căn và bệnh Graves-Basedow).
    • Một nồng độ kháng thể kháng TPO rất cao được thấy ở Bệnh nhân bị viêm tuyến giáp Hashimoto. Trong bệnh này, tần suất gặp kháng thể kháng TPO lên tới 90%.
    • Các tự kháng thể này cũng thường xẩy ra (60-80%) trong quá trình tiến triển của bệnh Basedow. Có mối tương quan chặt giữa sự có mặt của tự kháng thể kháng TPO và hình ảnh mô bệnh học của viêm tuyế giáp.
  • Ở Bệnh nhân bị suy giáp không có biểu hiện lâm sàng (subclinical hypo­ thyroidism), sự hiện diện của kháng thể kháng TPO dự kiến một nguy cơ cao hơn sẽ xuất hiện tình trạng suy giáp rõ rệt theo thời gian: 4,3%/năm so với 2,1 %/ năm ở các đối tượng có kháng thể âm tính. Hơn nữa sự hiện diện của kháng thể này cũng làm tăng thêm sự lo ngại là các đối tượng này có thể có gia tăng nguy cơ xuất hiện các bệnh lý tự miễn khác (Vd: suy thượng thận và đái tháo đường typl).
  • Nhiều thầy thuốc nội tiết sử dụng XÉT NGHIỆM kháng thể kháng TPO như một cơ sờ đê quyết định có cần điều trị cho bệnh nhân bị suy giáp không có biểu hiện lâm sàng hay không.

Các cảnh báo lâm sàng

XÉT NGHIỆM này thường được thực hiện cùng với XÉT NGHIỆM định lượng kháng thể kháng thyroglobulin. Giá trị > 9,0 IU/mL nói chung được kết hợp với viêm tuyến giáp tự miễn song tình trạng gia tăng kháng thể kháng TPO cũng được gặp trong các bệnh tự miễn khác. Tuy nhiên không thấy có kháng thể kháng TPO cũng không thể loại trừ được chẩn đoán viêm tuyến giáp Hashimoto. Tan suất có thể phát hiện được kháng thể kháng-TPO gặp ở các bệnh lý tuyến giáp không có tính chất tự miễn cũng tương tự với tần suất phát hiện được kháng thể này ở quần thể người khỏe mạnh với chức năng tuyến giáp bình thường (10-12%).

Scroll to Top