(Fibrinogène / Fibrinogen)
FIBRINOGEN là gì?
Fibrinogen là một glycoprotein có Trọng lượng phân tử 340.000, được gan tổng hợp và có thời gian bán huỷ là 4-5 ngày.
Fibrinogen tham gia vào:
Phản ứng viêm mà trong phản ứng này có một mối liên quan chặt chẽ giữa nồng độ fibrinogen với tốc độ lắng hồng cầu và nồng độ của protein phản ứng c (CRP). Fibrinogen cũng được coi như một chất phản ứng pha cấp (acute-phase reactant). Quá trình đông máu: Thrombin kích thích sự hình thành fibrin từ fibrinogen. Fibrin monomer này khi được yếu tố XIII (yếu tố làm ổn định fibrin) tham gia thêm sẽ hình thành một cục đông fibrin ổn định tại vị trí tổn thương (Hình 1). Trong trường hợp tăng hoạt động tiêu fibrin (tiêu fibrin tiên phát hay thứ phát), fibrinogen bị thoái giáng bởi plasmin thành các sản phẩm thoái giáng của fibrinogen (PDF) tạo thành các đoạn sớm (X và Y) và các đoạn muộn (D và E).
Trong bệnh lý gan, nồng độ fibrinogen rất thường thấy bị hạ thấp ở bệnh nhân xơ gan mất bù và trong viêm gan nặng (cấp hay mạn tính). Tình trạng giảm nồng độ fibrinogan này phản ánh mức độ nặng của bệnh lý gan và một nồng độ fibrinogen < 150 mg/dL thường dự báo một tiên lượng xấu.
Định lượng fibrinogen có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp, trong đó các phương pháp kinh điển nhất thường được sử dụng là:
- Đo hoạt độ sinh học của fibrinogen: Phương pháp của Clauss, đây là kỹ thuật thường được dùng nhất. Cho thừa thrombin vào plasma của Bệnh nhân và đo thời gian đông của plasma này sau khi hoà loãng plasma thành các tỷ lệ được xác định chính xác. Thời gian đông máu được tính ra giây tỷ lệ với nồng độ fibrinogen và hàm lượng của fibrinogen có thể được tính ra mg/dL, nhờ một đường cong chuẩn. (Hình 2)
- Đo nồng độ fibrinogen như một protein mang tính kháng nguyên. Phương pháp miễn dịch (Vd: phương pháp miễn dịch đo độ đục) đánh giá nồng độ protein, song phương pháp này không cho biết các thông tin về hoạt độ sinh học của fibrinogen. Kỹ thuật hữu ích này được sử dụng để làm sáng tỏ một tình trạng loạn fibrinogen máu.
Mục đích và chỉ định xét nghiệm FIBRINOGEN
- Giúp phát hiện một hội chứng viêm.
- Để thăm dò rối loạn đông máu khi Bệnh nhân có hội chứng chảy máu. Định lượng nồng độ fibrinogen máu được chỉ định khi các XÉT NGHIỆM đông máu khác (Vd: thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần, các sản phẩm thoái giáng fibrin và D-dimer) bất thường để phát hiện tình trạng giảm hoặc bất thường fibrinogen.
- Đế theo dõi trong quá trình điều trị tiêu fibrin.
- Có thể được sử dụng để theo dõi bệnh gan tiến triển.
- Có thể được sử dụng để đánh giá mức độ nặng và tiến triển của tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC) khi được tiến hành xét nghiệm theo seri.
Cách lấy bệnh phẩm xét nghiệm FIBRINOGEN
Bệnh phẩm huyết tương tách từ máu chống đông bằng citrat 3,8% (1 thề tích citrat cho 9 thể tích máu).
Không nhất thiết yêu cầu Bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu làm xét nghiệm.
Để xét nghiệm chính xác cần tuân thủ:
- Lấy đủ bệnh phẩm máu vào ống nghiệm đề đảm bảo tương quan thể tích máu/chất chống đông, lấy không đủ máu có thể gây tình trạng thừa chất chống đông với nguy cơ làm sai kết quà XÉT NGHIỆM ( 1 thể tích chống đông + 9 thể tích máu để báo đàm 1 thể tích chống đông cho 10 thể tích bệnh phẩm).
- Lắc kỹ ống nghiệm nhiều lần để trộn chất citrat với máu (nếu không, sẽ gây cục máu đông và không thể làm XÉT NGHIỆM được).
Giá trị bình thường xét nghiệm FIBRINOGEN
- Trẻ em: 150 – 300 mg/dL hay 1,5-3 g/L.
- Người lớn: 200 – 400 mg/dL hay 2-4 g/L.
Nồng độ fibrinogen tăng theo tuổi và ở người nghiện thuốc lá.
Tăng nồng độ fibrinogen
Các nguyên nhân chính thường gặp là:
- Các bệnh nhiễm trùng và quá trình viêm cấp.
- Các bệnh viêm mạn (Vd: bệnh Crohn, lao…).
- Các bệnh lý khối u, u lympho.
- Các bệnh tự miễn.
- Hội chứng thận hư.
- Nhồi máu cơ tim cấp.
- Có thai và dùng thuốc viên ngừa thai.
- Giai đoạn hậu phẫu.
- Người hút thuốc lá.
- Người có tuổi.
- Giai đoạn sớm của đông máu rải rác trong lòng mạch.
Giảm nồng độ fibrinogen
Các nguyên nhân chính thường gặp là:
- Các bệnh lý gan nặng và trong giai đoạn tiến triển.
- Bệnh đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC): Fibrinogen bị tiêu thụ sau một gia tăng ban đầu dưới vai trò của một chất phản ứng pha cấp.
- Tình trạng tiêu fibrin bệnh lý tiên phát hay thứ phát do:
- Các bệnh lý huyết khối.
- Các thuốc gây tiêu fibrin.
- Giảm fibrinogen máu bẩm sinh (congenital hypofibrinogenemia: Bệnh hiếm gặp, di truyền theo kiểu gen trội và không liên quan với giới tính. Các biểu hiện chảy máu xẩy ra muộn và bệnh thường được phát hiện khi Bệnh nhân chịu một can thiệp phẫu thuật.
- Không có fibrinogen máu bấm sinh (congenital afibrinogenemia): Bệnh rất hiếm gặp, di truyền theo kiểu gen lặn qua nhiễm sắc thể thường. Bệnh gây tình trạng máu mất khả năng đông.
- Các rối loạn fibrinogen máu bẩm sinh (dysfibrinogenemia): Các bệnh lý di truyền theo kiêu gen trội qua nhiễm sac thê thường, bệnh đặc trưng bằng tình trạng bất thường về chất lượng của fibrinogen.
- Ớ các Bệnh nhân nói trên (mà chủ yếu ở các người đồng họp tử), hoạt độ sinh học của fibrinogen bị biến đổi, vì vậy Bệnh nhân có thể có biểu hiện hoặc là các biến chứng chảy máu, hoặc hình thành các huyết khối và rối loạn khả năng tạo sẹo.
Về phương diện sinh học:
Nồng độ fibrinogen bị hạ thấp khi đo theo phưcmg pháp kinh điển của Clauss (đánh giá hoạt độ sinh học của fibrinogen).
Nồng độ fibrinogen thường thấy bình thường khi đánh giá theo phương pháp miền dịch đo độ đục (đánh giá các protein có tính kháng nguyên). Ket quả này cho phép phân biệt tình trạng rối loạn fibrinogen máu với các giám fibrinogen máu mắc phải hay mang tính chất gia đình,
Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm FIBRINOGEN
- Kết quà định lượng fibrinogen có thể bị biến đổi khi mẫu bệnh phẩm có tình trạng vỡ hồng cầu hoặc bị đông hay nếu Bệnh nhân được truyền máu trong vòng 1 tháng trước khi XÉT NGHIỆM.
- Nồng độ fibrinogen máu có thể bị thay đối khi có tình trạng tăng nồng độ lipid máu, vàng da, và hematocrit > 55%.
- Các thuốc có thể làm tăng nồng độ fibrinogen máu là: Estrogen, thuốc ngừa thai uống.
- Các thuốc có thể làm giảm nồng độ fibrinogen máu là: Atenolol, thuốc làm giảm cholesterol máu, corticosteroid, estrogen, fluo- rouracil, progestin, thuốc tiêu huyết khối, ticlopidin, acid valproic.
Lợi ích của xét nghiệm định lượng fibrinogen
- Trong các bệnh nhiễm khuẩn, ung thư, các bệnh tự miễn, nồng độ fibrinogen giúp đánh giá mức độ của hội chứng viêm (kết hợp với tốc độ lắng hồng cầu và protein phản ứng c [CRP]).
- Trong bệnh lý của gan mật, định lượng nồng độ fibrinogen giúp đánh giá mức độ nặng của bệnh lý gan (kết họp với định lượng antithrombin III, thời gian Quick, nồng độ albumin và cholesterol).
- Trước khi tiến hành đại phẫu thuật, định lượng fibrinogen là một phần của bilan trước mổ (kết họp với xét nghiệm đánh giá thời gian chảy máu, thời gian cephalin, thời gian Quick và đếm số lượng tiểu cầu).
- Trong trường hợp nghi ngờ bị đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC), sẽ thấy giảm nồng độ fibrinogen và số lượng tiểu cầu đi kèm với tăng nồng độ các sản phẩm thoái giáng của fibrin.
- Trong chẩn đoán sinh học hội chứng chảy máu, xác định nồng độ fibrinogen giúp phát hiện các chứng giảm hay loạn fibrinogen máu.
- Trong tất cả các trường hợp có kéo dài thời gian cephalin, thời gian prothrombin hay thời gian thrombin mà không giai thích được nguyên nhân, định lượng fibrinogen là XÉT NGHIỆM không thể thiếu.
- Ở Bệnh nhân bị huyết khối nhất là huyết khối động mạch, định lượng fibrinogen là XÉT NGHIỆM có giá trị giúp tìm kiếm bệnh căn gây huyết khối.
Ghi chú:
Định lượng kháng nguyên fibrinogen (phương pháp miễn dịch đo độ đục [immuno nephelometrique]) chi giúp ích trong chẩn đoán phân biệt giữa loạn fibrinogen máu với giảm fibrinogen máu.
Các cảnh báo lâm sàng
Do tình trạng gia tăng ban đầu nồng độ fibrinogen, xét nghiệm này không thực sự hữu ích trong chẩn đoán tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch. Thiếu hụt nặng fibrinogen có thể gây kéo dài PT, PTT và TT.